Skkn Một số biện pháp rèn viết chính tả cho học sinh lớp 2

 


1. Là tác giả đề nghị  xét công nhận sáng kiến : Một số biện pháp rèn viết chính tả cho học sinh lớp 2.

2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:

3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (môn Tiếng Việt)

4. Ngày sáng kiến được áp dụng  áp dụng lần đầu

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1.1.Tính mới của sáng kiến

 a.Tình trạng các giải pháp đã biết

     - Khi dạy học phân môn chính tả tôi đã áp dụng nhiều biện pháp như: thực hiện đúng theo quy trình dạy học, truyền đạt hết nội dung của sách giáo khoa qua bài viết, hướng dẫn học sinh  luyện viết từ khó, làm các bài tập phân biệt chính tả, nhắc nhở học sinh viết đúng độ cao, khoảng cách các chữ…nhưng chất lượng chữ viết của học sinh vẫn chưa đạt kết quả cao. Sau thời gian tìm hiểu, nghiên cứu  tôi đã tìm ra  được một số giải pháp để nâng cao dần chất lượng  chữ viết của học sinh .

5.1.2.Các giải pháp mới

- Giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh trong tất cả các tiết học và trong giao tiếp.

- Giúp học sinh nắm được  một số mẹo luật chính tả.

- Giáo viên không chỉ sửa lỗi trong bài viết chính tả mà còn ở các môn học khác, các bài kiểm tra,…

- Hướng dẫn học sinh nhận xét, góp ý bài của bạn, chỉ ra được lỗi để cùng sửa.

- Hướng dẫn học sinh rèn viết thêm ở nhà, đặc biệt là những em hay mắc lỗi chính tả.

   5.2 . Nội dung của sáng kiến:

    5.2.1 Lí do chọn đề tài

          Môn Tiếng Việt đã góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở Tiểu học theo đặc trưng của bộ môn. Học sinh muốn tiếp thu tri thức khoa học phải bằng con đường nghe - đọc. Giáo viên muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng  phải dựa vào năng lực nói và viết của các em.Vì thế, thông qua môn Tiếng Việt sẽ giúp cho học sinh đọc thông viết thạo, sử dụng ngôn ngữ nói và  ngôn ngữ viết trong học tập và giao tiếp. Muốn đọc thông viết thạo, trẻ em phải được học chính tả. Chính tả  là phân môn có tính chất công cụ. Nó là môn học có tính chất thực hành, môn học cấu tạo và biểu hiện chữ viết bằng đường nét hình vẽ. Chữ viết là phương tiện tiếng nói trong giao tiếp. Thông qua việc dạy chính tả sẽ giúp cho học sinh đọc thông, viết thạo.

       Việc rèn luyện kĩ năng viết cho học sinh là điều cần thiết, vì chữ viết của học sinh có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng học tập. Nhưng trên thực tế, trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng còn mắc nhiều lỗi chính tả.Với suy nghĩ “Phải làm thế nào để học sinh không những viết được mà còn viết đúng, viết đẹp?”, tôi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp rèn viết chính tả cho học sinh lớp 2” để nghiên cứu.

5.2.2.Mục đích nghiên cứu của đề tài

        Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2, tôi mong muốn tìm ra một số biện pháp hiệu quả nhất nhằm nâng cao chất lượng chất lượng chữ viết cho học sinh, giúp học sinh học tốt hơn không chỉ ở  phân môn  Chính tả  mà còn ở tất cả những môn học khác, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

5.2.3. Đối tượng áp dụng

         Học sinh lớp Hai/1 Trường tiểu học An Lộc B.

 5.2.4.Thực trạng

         Thực tế là sau khi học xong chương trình lớp 1, một số học sinh đã tương đối nắm vững những kiến thức và kĩ năng đọc, viết để tiếp tục học lớp 2. Bên cạnh đó vẫn còn những học sinh viết chính tả chưa tốt. Điều này ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của các em ở tất cả các môn học.

         Cụ thể, vào đầu năm học, sau khi nhận lớp Hai/1với tổng  số học  sinh cả lớp là 42 em, các em nói (phát âm) như thế nào thì viết như thế. Trong tổng số 42 em, có  15 em nét chữ tương đối đẹp, đúng mẫu, đúng chính tả;15 em viết đúng chính tả nhưng chữ viết chưa đúng mẫu, chưa đẹp; 12 em viết hay mắc lỗi chính tả, chữ viết còn xấu hoặc viết chưa đạt yêu cầu.

         Quá trình trao đổi và nghiên cứu cùng với việc chấm bài của học sinh, tôi nhận thấy học sinh mắc những lỗi chính tả  chủ yếu sau:

* Viết hoa tự do: Một số học sinh hay viết hoa tự do nhưng đầu câu lại không viết hoa.

* Lỗi vdấu thanh: Tiếng Viết có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng), nhiều học sinh lại không phân biệt được hai thanh hỏi/ ngã mà số lượng tiếng mang hai thanh này lại rất phổ biến.

   Ví dụ: uống sửa (uống sữa), lẩn lộn (lẫn lộn), ngã ngữa (ngã ngửa), nghĩ ngơi (nghỉ ngơi),…

        * Lỗi phụ âm đầu:

         -v/d/gi: giày giép(giày dép), ra dề (ra về)  

         - ch/ tr: kể truyện (kể chuyện), cây che (cây tre), con châu (con trâu)…

         -c/k : céo co (kéo co), ciên nhẫn (kiên nhẫn), kâu cá (câu cá), 

          - s/x: cây xả (cây sả), sa sôi (xa xôi), ngôi xao (ngôi sao),…

          - ng/ngh: ngề ngiệp (nghề nghiệp), nghĩ nghợi (nghĩ ngợi), lắng nge (lắng nghe)

           * Lỗi âm cuối, vần :

             - an/ang; ân/âng; ăn/ăng:cây bàn (cây bàng), bàng bạc (bàn bạc), lầng lược (lần lượt), bân khuân (bâng khuâng), ăng uống (ăn uống)…

           - at/ac; ăt/ăc, ât/âc: mác mẻ (mát mẻ), lừa gạc (lừa gạt), gặc lúa (gặt lúa)…

          - ưi/ươi: con ngừi (con người), tươi cừi (tươi cười),…

          - en/eng, ên/ênh: lên khên (lênh khênh), áo leng (áo len), gập ghền (gập ghềnh), bồng bền  (bồng bềnh),…

      Để khắc phục được lỗi chính tả học sinh hay mắc phải ở trên, tôi phải nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh hay viết sai chính tả. Từ đó có biện pháp tốt nhất hướng dẫn học sinh một cách cụ thể, có hiệu quả.

  5.2.5 Nguyên nhân mắc lỗi chính tả của học sinh lớp 2:

     a) Do tác động của hoàn cảnh sống :

      Như ta đã biết, mỗi địa phương có những ngữ âm riêng do phương ngôn mang lại. Hiện tượng phương ngôn này luôn tồn tại. Nó diễn ra hằng ngày, tác động đến quá trình nhận thức của các em. Cụ thể là :

   + Trong phương ngữ khu vực miền Trung trở vào Nam không có thanh ngã, trong khi đó số lượng từ mang hai thanh này rất nhiều. Do đó, đây là lỗi phổ biến trong học sinh.

   + Trong khi một số vùng miền Bắc thường hay lẫn lộn các âm đầu l/n; ch/tr;s/x; r/d/gi thì trong miền Nam thường hay lẫn lộn v/d/gi; âm cuối n/ng, t/c. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng ( ví dụ âm cờ ghi bằng 3 chữ cái c/k/qu, âm ngờ ghi bằng ng/ngh , âm gờ ghi bằng g/gh,..) Mặc dù đã có quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ nhưng đối với học sinh tiểu học thì rất dễ lẫn lộn.

    + Việc phát âm của người  miền Nam hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng, c/t mà số từ mang các vần này không nhỏ. Do đó, lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía Nam nói chung và học sinh địa phương nói riêng.

        Do đặc điểm tâm lí học sinh hiếu động, hay bắt chước, nên khi sống và học tập ở địa phương, đặc biệt là qua tiếp xúc với mọi người xung quanh, bạn bè, trực tiếp sử dụng phương ngôn sẽ dễ hình thành ở các em tiếng nói chung. Từ đó, các em vận dụng những ngôn ngữ mà mình biết để giao tiếp và học tập, lâu dần thành quen nên rất khó sửa.

       Một nguyên nhân nữa cần phải kể đến đó là phụ huynh học sinh chủ yếu là làm nông và làm nghề tự do nên sự quan tâm của phụ huynh đến con em trong học tập còn ít. Nhiều phụ huynh còn  đi làm xa để con ở nhà với ông bà, nhiều học sinh là con em gia đình khó khăn, đồ dùng sách vở còn thiếu  nên chất lượng học tập chưa cao.

   b) Do kĩ năng nghe của học sinh chưa tốt

        Đặc điểm của ngôn ngữ Tiếng Việt là nói và nghe thế nào thì viết thế ấy. Do học sinh còn nhỏ nên vốn từ còn hạn chế. Khi vào một bài cụ thể, sẽ có nhiều từ ngữ mới mẻ mà các em mới tiếp xúc, vì kĩ năng nghe của học sinh không  tốt dẫn đến các  em nắm bắt và hiểu sai từ  khi mình vừa nghe nên dẫn đến viết sai.

   c) Do học sinh hiểu biết không đầy đủ về các quy tắc chính  tả

        Muốn viết đúng chính tả, học sinh phải nắm vững quy tắc chính tả Tiếng Việt. Nhưng thực tế có nhiều em chưa nắm vững quy tắc này.

VD: Quy tắc viết hoa (viết hoa tên riêng, viết hoa chữ đầu câu), quy tắc viết các chữ:c/k/q, ng/ngh, g/gh, y/i,…những quy tắc chính tả này, học sinh được trang bị dần trong quá trình theo học chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học.

    d) Do ảnh hưởng của cách phát âm sai

          Hiện nay có rất nhiều học sinh phát âm sai (đọc không đúng, không chuẩn) điều này có ảnh hưởng rất lớn đến lỗi chính tả của học sinh.Vì cơ sở cơ bản của chính tả Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm. Viết chính tả Tiếng Việt chủ yếu là ghi âm tiết, các chữ cái biểu tượng âm thanh được tiếp nhận qua lời nói (âm vị đọc thế nào, nói thế nào thì viết thế ấy) có nghĩa là viết  như nói, viết như nghe. Cũng có trường hợp giáo viên đọc mẫu phát âm sai dẫn đến học sinh viết sai.

     e) Do hạn chế về vốn từ

        Muốn viết đúng chính tả, người viết phải hiểu nghĩa của từ và cách viết của từ đó. Học sinh tiểu học do có vốn từ còn ít nên cũng thường viết sai các từ Hán Việt, do chưa hiểu thấu đáo nghĩa của từ.

VD: tham quan viết là thăm quan

       Bàng quan viết là bàng quang

5.2.6. Biện pháp tổ chức thực hiện

  1.Hướng dẫn học sinh phát âm đúng:

        Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý  luyện phát âm cho học sinh để các em phân biệt được các âm, vần các thanh dễ lẫn.

        Học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng thường mắc lỗi chính tả ở các tiếng phát âm không phân biệt (phụ âm đầu, vần thanh theo tiếng địa phương).Vì vậy, dạy chính tả phải kết hợp với dạy chính âm (luyện phát âm). Do đó, công việc này đòi hỏi  phải thực hiện thường xuyên. Trên cơ sở học sinh phát âm đúng mới viết đúng được. Phát âm đúng là biện pháp sửa lỗi chính tả từ gốc của học sinh. Luyện phát âm cho học sinh có thể thực hiện mọi lúc, mọi nơi, trong các  tiết học: tập đọc, kể chuyện, khi học sinh trả lời câu hỏi. Đặc biệt là giờ tập đọc, chính là thời gian có thể luyện phát âm nhiều nhất cho học sinh. Bởi giờ tập đọc, học sinh không những được luyện đọc đúng, đọc nhanh mà các em còn được đọc các tiếng khó, thông qua sự giảng giải của giáo viên một cách tỉ mỉ về cách đọc đúng và nhớ lâu.

        Trong giờ tập đọc, tôi kết hợp hướng dẫn học sinh đọc từ khó với việc luyện phát âm. Có thể gọi học sinh phát âm sai đọc từ khó để sửa chữa uốn nắn ngay cách đọc. Học sinh nhớ lâu thì viết chính tả đạt hiệu quả hơn. Ngoài việc học chính tả trên lớp, tôi còn  luyện phát âm cho học sinh trong giao tiếp. Khi tiếp xúc với các em, tôi có thể dễ dàng nhận ra ngay những lỗi phát âm sai của học sinh, từ đó tôi chỉ ra lỗi sai cho học sinh giúp các em nhận ra lỗi sai và sửa chữa.

2. Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của từ:

           Để giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách sâu sắc, khi giải nghĩa từ, tôi giải nghĩa bằng trực quan, ngữ cảnh, cách đối chiếu so sánh với các từ khác bằng các từ đồng nghĩa- trái nghĩa, bằng sự phân tích các thành tố hoặc chi tiết đối tượng mà từ gọi tên.

     Trong các biện pháp đó, biện pháp giải nghĩa từ bằng trực quan là sinh động hơn cả. Khi giải nghĩa bằng trực quan sẽ làm cho các em  hiểu một cách dễ dàng nghĩa của từ, phát triển năng lực tư duy, khả năng liên tưởng phong phú về từ cho các em.

Song việc giải nghĩa của một số từ không sử dụng bằng trực quan được, tôi  hướng dẫn học sinh hiểu từ bằng cách so sánh, đối chiếu nghĩa của từ nhằm cung cấp những thông tin cần thiết làm chỗ dựa, cơ sở cho học sinh viết đúng các từ này.

VD: Khi muốn giải nghĩa của từ “trú” giáo viên đưa cặp từ để học sinh phân biệt nghĩa và so sánh, đối chiếu.

* Phân biệt trú/ chú

-Trú : có nghĩ là ở, ở tạm, dừng lại hoặc lánh vào một nơi nào đó (trú quán, ngoại trú, trú ẩn)

-Chú: em trai của ba (bố ).

       Như vậy cách tốt nhất là cung cấp cho học sinh từ trong ngữ cảnh và suy luận ra chữ viết. Ngữ cảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp học sinh nắm được nghĩa của từ dễ dàng và làm điểm tựa cho trí nhớ.

 3. Giúp học sinh nắm vững quy tắc chính tả:

        Trong giờ chính tả, để giúp học sinh phân biệt các cặp phụ âm đầu, các cặp từ cần thiết là một việc làm gặp nhiều khó khăn, bởi học sinh còn nhỏ, nhận thức chậm do vốn hiểu biết còn  hạn hẹp; kĩ năng, kĩ xảo chưa thành thục. Vì thế, căn cứ  vào trình độ học sinh của lớp, tôi đã sử dụng những  phương pháp phù hợp nhất để  giúp học sinh nắm quy tắc chính tả nhanh và chắc. Cụ thể:

*Kĩ năng chính tả các từ hay âm tiết có phân biệt âm đầu:

  - Các âm đầu k, gh, ngh đứng trước các nguyên âm e, i, ê, iê.

  - Các âm đầu c, g, ng đứng trước các nguyên âm o, ô, ơ, ,ă, â, u, ư.

* Hướng dẫn học sinh nắm được cấu tạo tiếng -từ:

     Rèn  cho học  sinh nhớ tiếng đó có cấu tạo như thế nào ? Vần đó gồm mấy âm ghép lại, âm nào đứng trước, âm nào đứng sau?

 * Hướng dẫn học sinh nắm được cấu tạo một số vần khó.

      VD: âm đệm

     Viết là u khi đứng trước nguyên âm hẹp như: uy, uyên, uê, uơ

      Viết là o khi đứng trước các nguyên âm rộng như: oe, oa, oăm.

* Hướng dẫn học sinh viết hoa: Cần nắm được quy tắc viết hoa tên riêng, tên địa lí Việt Nam (Nguyễn Anh Thư, Sông Hương,Vũng Tàu); tên người và tên địa lí phiên âm theo Hán Việt (Đan Mạch, Ấn Độ); viết hoa tên các cơ quan, tổ chức (Bộ Công an, Hội Chữ thập đỏ)

* Hướng dẫn học sinh ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:

   - Phân biệt ch/tr: đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và con vật đều bắt đầu bằng ch

(chiếu, chổi, chum,  chảo, chén,…; chó, chào mào, chiền chiện, chuồn chuồn, châu chấu,…)

   - Phân biệt s/x: đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s (sả, sen, sắn, si, sầu riêng, săng lẻ, sim, sồi, sứ,…, sáo, sóc, sò, sam, san hô, sơn dương,..)

   - Phân biệt các vần dễ lẫn:

+ ên/ênh: Đa số các từ chỉ sự bấp bênh, không vững chắc có vần ênh (gập ghềnh, chông chênh, cồng kềnh, lênh khênh, chếnh choáng,…)

+ Hầu hết các từ chứa tiếng có tận cùng là nh/ch/ng là từ mô tả âm thanh : leng keng, loảng xoảng, xập xình, đùng đoàng, huỳnh huỵch, thình thịch, quang quác,…

+ Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ khuỷu tay, khúc khuỷu, khuỵu chân, ngã khuỵu.

+Vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân.

4. Hướng dẫn học sinh viết từ khó trong giờ chính tả:

       Học sinh nắm được cách viết từ khó tức là nắm được cấu tạo của tiếng, từ cần viết. Do vậy trong giờ dạy chính tả, ở bước hướng dẫn học sinh viết từ khó, tôi  hướng dẫn  cụ thể, tỉ mỉ, phân tích tiếng khó viết. Phân tích tiếng gồm phụ âm đầu và vần trong tiếng để học sinh tránh viết nhầm. Ở phần này, tôi đã thực hiện qua hệ thống câu hỏi đối với từ khó viết như sau:

+ Từ này gồm mấy tiếng ?

+ Tiếng đó gồm âm đầu và vần gì ?

Tôi lấy ví dụ ở những tiếng cần so sánh và hỏi học sinh: Hai tiếng này giống và khác nhau ở điểm nào?

     Phân biệt chính tả bằng cách phân tích, so sánh. Trong giờ chính tả, tôi thường xuyên hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo tiếng khó rồi so sánh với tiếng dễ lẫn:

VD: Khi viết tiếng hàn, học sinh dễ lẫn lộn với hàng, tôi yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này để các em thấy tiếng hàng có âm cuối là ng, tiếng hàn có âm cuối là n. Học sinh ghi nhớ điều này để không viết sai.

-         hàng= h+ ang + thanh huyền (hàng hóa, xếp hàng,…)

-         hàn = h+ an+ thanh huyền (thợ hàn, hàn gắn,…)

       Bước hướng dẫn học sinh viết từ khó là cơ bản trong giờ chính tả nên tôi luôn  dành  thời gian để học sinh tập viết đúng. Bên cạnh đó, tôi còn cho học sinh luyện viết các từ, thi viết nhanh, viết đúng từ khó vào bảng phụ qua trò chơi, bài  tập. Sau đó  nhận xét và sửa lỗi cho học sinh nhớ, nhằm hạn  chế lỗi trong bài viết.

5. Học sinh phát hiện lỗi và tự sửa lỗi:

       Trong giờ chính tả, tôi giúp học sinh phát hiện ngay được lỗi sai của mình. Điều này được thực hiện khi học sinh soát bài chính tả vừa viết. Khi  đọc cho học sinh soát bài,  tôi lưu ý nhấn mạnh ở  những chữ mà học  sinh của lớp hay viết sai để học sinh phát hiện và tự sửa.

VD: Khi đọc cho học sinh soát bài “Sân  chim” TV2- tập II,  cần đọc nhấn mạnh “tả xiết” để học sinh không viết nhầm “ tả xiếc”.

       Tôi giúp học sinh tự sửa lỗi sai khi học sinh viết từ khó lên bảng, giấy nháp, khi soát bài sửa lại bằng cách gạch chân chữ sai và sửa lại ra phần “sửa lỗi”. Tôi hỏi một vài em về cách sửa:

 + Bài viết của em có bao nhiêu lỗi sai?

 + Với từ sai này, em sẽ sửa như thế nào?

6.Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:

        Đây là việc làm không kém phần quan trọng trong giờ học chính tả. Tôi cho học sinh thực hiện các dạng bài tập âm vần (chú trọng những bài tập có âm, vần đa số học sinh mắc lỗi) để giúp các em vận dụng những kiến thức đã học, làm quen với cách sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, tôi giúp học sinh rút ra quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.

Ví dụ:

a)     Điền n hay ng: ngâ… nga, yên lặ…, vâ… lời, cái câ…

b)    Điền t hay c : lượ… bỏ, biến mấ…, ướ… mơ.

c)     Điền vào chỗ chấm:

-         c hay k : …éo co, cổ …ính, …iên nhẫn, tổ…iến

-         ng hay ngh: ngốc …ếch, ngờ …ệch, nghiêng …ả., ngọt …ào.

     Học sinh hào hứng, tự giác, tích cực tham gia các hoạt động học tập thì chất lượng giờ học sẽ cao. Trò chơi học tập là một hình thức “vui để học” mà học sinh hứng thú nhất. Chính vì vậy tôi thường xuyên tổ chức cho học sinh làm bài tập chính tả thông qua các trò chơi phù hợp và đã đem đến cho tôi những kết quả bất ngờ. Không những học sinh viết chính tả có tiến bộ mà vốn từ của các em ngày càng phong phú hơn.

     Ngoài ra, việc tích hợp dạy chính tả trong các môn học khác rất quan trọng. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kĩ năng “viết đúng, viết đẹp” trong mọi tình huống.

7. Hướng dẫn riêng những học sinh viết sai nhiều lỗi:

     Trong lớp, ngoài những học sinh viết đúng còn có một số học sinh thường xuyên viết sai, sai nhiều lần. Do mải chơi hoặc do nhận thức chậm, các em không nắm được quy tắc chính tả. Do đó, tôi luôn  dành nhiều thời gian đề rèn và luyện viết cho những học sinh này.

      Bên cạnh việc hướng dẫn các em viết ở lớp, tôi yêu cầu những học sinh viết chữ chưa đẹp, mắc nhiều lỗi về nhà viết lại bài chính tả.Việc luyện viết ở nhà không những rèn cho các em kĩ năng viết đúng mà khả năng nắm bắt từ cũng  nhanh hơn và nhớ lâu hơn. Trong quá trình đó, học sinh nâng dần được tốc độ viết, chữ viết cũng ngày càng đẹp, trình bày khoa học hơn. Sau mỗi bài, tôi đều thu, chấm, nhận xét và kịp thời động viên, khích lệ những em có tiến bộ để các em vui mừng vì sự cố gắng, tiến bộ của mìn

 5.2.7. Bài học kinh nghiệm:

   Để việc dạy học phân môn chính tả đạt kết quả tốt thì người giáo viên cần :

  - Linh động sử dụng phương pháp dạy sao cho phù hợp với kĩ năng viết và trình độ của học sinh.

   - Phân loại học sinh, có biện pháp phụ đạo, bồi dưỡng kịp thời.

   - Giáo viên không chỉ sửa lỗi trong bài viết chính tả mà còn ở các môn học khác, các bài kiểm tra,…

    - Giáo viên luôn  động viên, nhắc nhở học sinh thực hiện tốt phong trào “Vở sạch- Chữ đẹp”. Thường  xuyên chấm và nhận xét vở của học sinh, trưng  bày những cuốn vở, những bài viết đúng, đẹp  tạo động lực thi đua trong học sinh.

 - Thái độ của giáo viên phải mềm mỏng, tôn trọng  học sinh. Quan tâm sâu sát những học sinh viết chưa đúng, chưa đẹp. Động viên khích lệ kịp thời những học sinh có cố gắng, tiến bộ dù là những tiến bộ rất nhỏ.

  - Thường xuyên thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em tiếp thu bài nhanh, đạt kết quả cao.

- Giáo viên nên sử dụng linh hoạt các biện pháp và sửa lỗi chính tả để giúp học sinh viết đúng.

 5.3 Khả năng áp dụng của sáng kiến:

        Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi trên mọi đối tượng học sinh. Các biện pháp  mà tôi đã áp dụng rất thực tế với  đặc trưng của phân môn chính tả, phù hợp với đặc điểm  của học sinh tiểu học. Với những biện pháp nêu trên GV giảng dạy khối  2 có thể  áp dụng vào các tiết  Chính tả  để nâng cao dần chất lượng  chữ viết của học sinh .

6. Những thông tin cần được bảo mật: không có

7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

    + Đối tượng  học sinh khối 2  cấp tiểu học.

    + Giáo viên giảng dạy khối  2 các trường tiểu học .

    + Các đồ dùng dạy cần thiết như: bảng phụ, bộ đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt, các thẻ từ.

    + Ban giám hiệu hỗ trợ các điều kiện về cơ sở vật chất, tham gia dự giờ góp ý rút kinh nghiệm .

8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả :        

      Từ việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến lỗi chính tả của học sinh trong lớp và đề ra biện pháp sửa chữa thích hợp và qua quá trình  giảng dạy hằng ngày, tôi nhận thấy bài viết của học sinh có nhiều tiến bộ, trình bày đẹp, viết đúng mẫu, đúng kích cỡ. Đặc biệt là lỗi chính tả  đã được hạn chế, giảm hẳn việc viết hoa tùy tiện. Điều làm tôi vui mừng là khi áp dụng một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong dạy học là học sinh lớp tôi không những dần viết  đúng mà còn viết đẹp. Qua kì giao lưu Vở sạch chữ đẹp, Viết chữ đẹp cấp trường lớp tôi đã đạt kết quả như sau:

+ Vở sạch chữ đẹp: Có 2 em đạt giải (trong đó 1 em đạt giải ba, 1 em đạt giải khuyến khích).

+ Viết chữ đẹp: Có 5 em đạt giải (trong đó 1 em đạt giải nhất, 2 em đạt giải khuyến khích, 2 em được công nhận ).

·        Kết quả học tập Môn Tiếng Việt của học kì I                                                                                                          

Năm học

Tổng số    HS                   

Thời gian

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

2020-2021

42

Đầu năm

15

24

3

42

Cuối HKI

25

17

0

                 

                                                                                                                          

                               …………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….

9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có)

…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….…………………………………………………………………………….

      Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

 

 Bình Long, ngày 22  tháng 2 năm 2021

                                                                                   Người nộp đơn

 

 

 

 

                                                                                       Bạch Vũ Thùy An

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                TÓM TẮT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

 

Tổ chức một số trò chơi toán học lớp 2 nhằm gây hứng thú học tập                          cho học sinh

- Họ tên: Bạch Vũ Thùy An

- Chức vụ: Giáo viên

- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học An Lộc B-Thị xã Bình Long.

1.Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Trong quá trình dạy học tôi thấy  có nhiều giáo viên đã vận dụng trò chơi Toán học  vào các tiết dạy, tuy nhiên có nhiều lí do làm trò chơi bị hạn chế tác dụng: Giáo viên ngại  tổ chức trò chơi vì sợ mất nhiều thời gian.  Trò chơi được giáo viên vận dụng nhiều lần gây nhàm chán đối với học sinh. Nội dung trò chơi chưa phong phú, chưa hấp dẫn nên chưa đủ sức lôi cuốn học sinh tham gia. Tư duy của học sinh tiểu học đang trong giai đoạn “tư duy cụ thể”, chưa hoàn chỉnh, vì vậy việc nhận thức các kiến thức toán học trù tượng khái quát là vấn đề khó đối với các em.Thêm vào đó là lượng  kiến thức môn Toán lớp Hai khá nhiều dẫn đến một thực trạng là học sinh tiếp thu rất vất vả.

2.Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

- Khi áp dụng trò chơi học tập, tôi nhận thấy HS hứng thú hẳn lên, các em không còn rụt rè nhút nhát mà luôn  sôi nổi, tích cực trong giờ học toán. Chất lượng học tập của các em ngày càng được nâng lên, hạn chế tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, trong giờ học không còn học sinh lơ là trong học tập. Số lượng học sinh yêu thích môn Toán ngày càng một tăng lên. Như vậy việc áp dụng trò chơi học tập vào tiết dạy Toán đã góp phần rất lớn trong việc tạo hứng thú học Toán cho học sinh. Đồng thời trò chơi học tập cũng góp phần không nhỏ nhằm nâng cao chất lượng môn Toán.

- Với những trò chơi được  áp dụng vào trong giảng dạy đã mang lại cho tôi những kết quả khả quan. Những kinh nghiệm và kết quả đạt được đó, tôi đã chia sẻ cho các đồng nghiệp trong tổ khối và đã được áp dụng rộng rãi.

             Thống kê chất lượng môn Toán của lớp Hai/2  qua các năm học. 

 

Năm học

 

 

Sĩ số học sinh

Điểm

1-2

3-4

5-6

7-8

9-10

     2012- 2013(CKII)

36

0

0

0

4

32

     2013- 2014 (CKII)

38

0

0

4

11

23

 2014-2015(đầu năm)

                    Cuối kì I

40

40

 1

0

0

  0

4

2

21

9

14

29

    BẢN XÁC NHẬN HIỆU QUẢ ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG CỦA NHỮNG  

             GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP TỈNH.

 

1. Họ và tên tác giả: Bạch Vũ Thùy An

- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học An Lộc B-Thị xã Bình Long.

- Chức vụ: Giáo viên

-Điện thoại: 01673849459               Email:thuyan459@gmail.com

2. Tên giải pháp đề nghị  công nhận sáng kiến :

  Tổ chức một số trò chơi toán  học  lớp 2 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.

3. Mô tả tóm tắt nội dung sáng kiến :

       Trong quá trình dạy học tôi thấy rằng môn Toán là môn học chiếm nhiều thời lượng trong chương trình. Có thể nói Toán học đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó rèn luyện cho các em không chỉ đơn thuần là tính toán mà điều chủ yếu là năng lực tư duy. Rèn luyện toán học chính là rèn luyện cho các em trở nên linh hoạt, nhạy bén  hơn khi tiếp cận những vấn đề  trong thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, muốn chất  lượng  môn Toán được nâng cao, yếu tố đầu tiên và cũng là quan trọng nhất là học sinh phải yêu thích học Toán, phải có hứng thú học Toán thực sự. Bởi vậy đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương  pháp và hình thức tổ chức dạy học trong đó vận dụng linh hoạt các trò chơi học tập.

       Trò chơi toán học nhằm mục đích là thông qua trò chơi để củng cố kiến thức của bài học, luyện tập lại kiến thức của bài mới  nhằm  phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi và để học.

        Sáng kiến tích lũy một số kinh nghiệm nhằm nâng cao  chất  lượng  môn Toán qua việc áp dụng một số trò chơi toán học vào  trong giảng dạy góp phần tạo sự hứng thú, say mê học Toán cho học sinh. Sáng kiến giới thiệu một số trò chơi Toán học mới lạ, hấp dẫn đã được giáo viên vận dụng hiệu quả.

·        Trò chơi 1 : Xếp  đúng thứ tự

·        Trò chơi 2 : Đố biết số nào ?

·        Trò chơi 3 : Điền nhanh số thích hợp

·        Trò chơi 4 : Đố bạn

·        Trò chơi 5 : Nhanh mà đúng .

·        Trò chơi 6 : Ai khéo tay hơn?

·        Trò chơi 7 : Rung chuông vàng

·        Trò chơi 8: Hoa nào đẹp ?

       Để áp dụng trò chơi toán học đạt hiệu quả, khi thiết kế trò chơi phải đảm bảo những điều kiện sau:

        - Lựa chọn trò chơi phù hợp với nội dung bài.

        - Nắm vững các nguyên tắc chủ yếu  để thiết kế và sưu tầm trò chơi toán học .

         - Cách tổ chức trò chơi học tập môn Toán.

         - Những yêu cầu cần thiết để trò chơi học tập đạt hiệu quả.

4. Nội dung xác nhận hiệu quả áp dụng, nhân rộng sáng kiến:

4.1. Thời điểm sáng kiến được áp dụng hoặc áp dụng thử: 1/10/2012

4.2. Cơ sở áp dụng hoặc áp dụng thử sáng kiến lần đầu tiên:

- Tên cơ sở:Trường Tiểu học An Lộc B

- Địa chỉ :Số 4 đường Hồ Xuân Hương –khu phố Phú Hưng –Phường Phú Thịnh

- Điện thoại liên hệ : 06513666436.

 4.3. Xác nhận hiệu quả áp dụng sáng kiến :

- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng theo ý kiến của tác giả :

Trong quá trình áp dụng trò chơi học tập, tôi nhận thấy HS hứng thú hẳn lên, các em không còn rụt rè nhút nhát mà luôn  sôi nổi, tích cực trong giờ học toán. Chất lượng học tập của các em ngày càng được nâng lên, hạn chế tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, trong giờ học không còn học sinh lơ là trong học tập. Không những thế còn giúp học sinh nhút nhát hòa mình vào tập thể. Số lượng học sinh yêu thích môn Toán ngày càng một tăng lên. Như vậy việc áp dụng trò chơi học tập vào tiết dạy Toán đã góp phần rất lớn trong việc tạo hứng thú học Toán cho học sinh. Đồng thời trò chơi học tập cũng góp phần không nhỏ nhằm nâng cao chất lượng môn Toán. Với những trò chơi đã áp dụng vào trong giảng dạy đã mang lại cho tôi những kết quả khả quan.

                Thống kê chất lượng môn Toán của lớp Hai/2  qua các năm học.  

 

Năm học

 

 

Sĩ số học sinh

Điểm

1-2

3-4

5-6

7-8

9-10

     2012- 2013(CKII)

36

0

0

0

4

32

     2013- 2014 (CKII)

38

0

0

4

11

23

 2014-2015(đầu năm)

                    Cuối kì I

40

40

 1

0

0

  0

4

2

21

9

14

29

 

     Năm học 2013-2014 lớp tôi có 6 học sinh giỏi toán cấp trường, 3 học sinh giỏi toán cấp thị.

     Năm học 2014-2015 lớp tôi có 8 học sinh giỏi toán cấp trường, 2 học sinh giỏi toán cấp thị trong đó có 1em đạt điểm cao nhất khối 2 trong trường.

4.4. Đánh giá về khả năng áp dụng, nhân rộng trên địa bàn tỉnh:

-Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi trên mọi đối tượng học sinh, phù hợp  với điều kiện cơ sở vật chất của các trường tiểu học trên địa bàn tỉnh. Các trò chơi được thiết kế phù hợp với đặc điểm  của học sinh tiểu học. Dựa vào hình thức, cách chơi, luật chơi của trò chơi GV có thể thay thế các trò chơi một cách linh hoạt( thay số, thay hình, thay sự tương ứng), để tổ chức trò chơi  phù hợp với đối tượng HS của mình. Giáo viên giảng dạy khối 1, 2, 3 đều có thể vận những trò chơi này trong các tiết học toán.

 Nguồn: ST


Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC