1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Ngữ Văn là một môn khoa học đóng vai trò rất quan trọng
trong nhà trường cũng như có giá trị trong thời kỳ mở cửa, hội nhập và trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Tuy nhiên mục tiêu của việc
dạy và học ở trường THCS nói chung và học sinh lớp 7 nói riêng, để nắm được
những kiến thức cơ bản, có kĩ năng giao tiếp và thực hành cảm thụ để cảm nhận
cái hay, cái đẹp của văn chương rất khó, đặc biệt là mảng thơ Đường (Trung
Quốc), ngôn ngữ đa nghĩa, sâu xa, “ý tại ngôn ngoại”, cấu trúc chặt chẽ, thể
hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người đời Đường một cách sâu
sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Thơ Đường là
sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Do đó, thi pháp
thơ Đường rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Hiểu được thơ Đường một cách thấu đáo đã là khó, việc giảng dạy
như thế nào để học sinh cảm thụ được còn khó khăn hơn rất nhiều.
Để đáp ứng cao trong quá trình thực hiện
mục tiêu đào tạo, mỗi giáo viên chúng ta phải đổi mới phương pháp giảng dạy,
vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy tích cực phù hợp với lứa tuổi, với
từng lớp học và tiết học cụ thể theo tinh thần “Lấy người học làm trung tâm”, nhằm
phát huy tích tích cực, năng động sáng tạo của học sinh trong việc rèn luyện
các kỹ năng ngôn ngữ. Trong các tiết dạy học thơ Đường tích hợp các phương pháp
là phương hướng chủ đạo, cơ bản, được coi vừa là mục đích vừa là phương tiện
dạy học với phương châm: “Học để hiểu, học để sống và học để làm người” để hòa
hợp tâm hồn, khát vọng sống tốt đẹp và vươn tới chân - thiện - mĩ.
Nhận thức được điều đó, trong
mỗi tiết học giáo viên phải gây được hứng thú làm nóng lên không khí học tập.
Bằng cách chọn các điểm sáng thẩm mĩ, các chi tiết độc đáo, mới lạ của bài, gây
được sự chú ý của học sinh đối với bài học, ổn định được lớp, thiết lập không
khí dễ chịu giữa thầy và trò, tạo môi trường thuận tiện cho bài học mới, đồng
thời giúp cho học sinh thoải mái tâm lý và chuẩn bị kiến thức cần thiết cho bài
mới. Xuất phát từ tầm quan trọng của những tiết thơ Đường, mỗi một giáo viên
chúng ta nên phải cân nhắc, quyết định nên làm những gì và làm như thế nào để
có thể thực hiện được mục đích của nó. Vì vậy, tôi đã đưa ra đề tài: “Một vài
kinh nghiệm trong việc dạy thơ Đường ở môn Ngữ Văn 7” để cảm được cái linh hồn,
hơi thở, cái lí của hình thức làm hấp dẫn cái tình của nội dung trong thơ Đường
ở môn Ngữ Văn 7 mà tôi muốn đề cập đến trong bản sáng kiến này.
1.2. Điểm mới của đề tài:
Việc tìm
hiểu các phương diện của thơ Đường từ cấu trúc đến cách sử dụng từ ngữ và cả
nội dung, tư tưởng trước đó đã có nhiều đề tài nghiên cứu, tuy nhiên, trong bản sáng kiến này tôi xin đưa
ra một vài kinh nghiệm, thủ thuật nhỏ nhằm gây hứng thú từ chiều sâu, chuyển
tải được “linh hồn” của những bài thơ Đường ở chương trình Ngữ Văn 7 đến với
học sinh ngay trong mỗi tiết học, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp
khi tiếp nhận chân lí nghệ thuật, góp phần hiểu thơ Đường một cách chính xác
hơn, toàn diện hơn về tư tưởng, phong cách thơ độc đáo của các bậc nho gia,
tiền bối.
Từ thực tế đó tôi đã tập trung
nghiên cứu đề tài và áp dụng trong quá trình giảng dạy để làm sao các em yêu
thích và cảm thụ, chiếm lĩnh được thơ Đường một cách có hiệu quả nhất.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
a. Thuận lợi:
Qua nhiều năm giảng dạy môn Ngữ Văn 7,
thường xuyên tham gia vào các hoạt động chuyên môn: thiết kế bài dạy, dự giờ
đồng nghiệp, sinh hoạt chuyên môn, kiểm tra đánh giá giờ học, và trong quá
trình giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy:
- Một số học sinh của lớp có khả năng tiếp thu bài
nhanh, có năng khiếu về văn chương. Các em có tinh thần học tập, ham học hỏi,
hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi lên
lớp.
- Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ tận tình của
đồng nghiệp, tham gia đầy đủ các lớp học chuyên đề, các lớp bồi dưỡng thường
xuyên của cấp trên tổ chức nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ theo kịp với xu thế
đổi mới của nền giáo dục nước nhà.
- Hiện nay, đã có nhiều tài liệu tham khảo về thơ
Đường giúp ích rất nhiều trong công tác giảng dạy của giáo viên.
b. Khó khăn:
-
Nhiều học sinh tỏ ra ngại học thơ Đường, không hứng thú, học sinh chưa có thói
quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, còn thờ ơ với tác phẩm văn chương, có
em còn “sợ” thơ Đường bởi vì đó là những bài thơ chữ Hán, từ ngữ khó hiểu, điển
tích, điển cố nặng nề gây cho các em mệt mỏi, mà cách giảng của giáo viên nhiều
lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ và thấy hấp dẫn, thú vị. Từ đó học sinh
mất hứng thú khi học văn học nước ngoài và kéo theo chất lượng học văn ngày
càng sa sút.
- Qua thực tế dự giờ, học hỏi kinh nghiệm, qua các
tiết thao giảng, khi dạy các bài thơ Đường nhận thấy kết quả chưa cao, một số
em thậm chí không nắm được nội dung bài học.
- Hiện tại môn Ngữ Văn đã có tài liệu tham khảo
nhưng các trang thiết bị như tranh ảnh của một số tác phẩm có đoạn trích được
học trong sách giáo khoa ở thư viện không có, do đó rất khó khăn cho học
sinh hình dung được nội dung của tác phẩm.
- Hiện nay do xu thế của xã hội nên học sinh xem
nhẹ các môn khoa học xã hội, trong đó có môn Ngữ Văn dẫn đến chất lượng học tập
không cao. Thấy được những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã cố gắng khắc phục
để vận dụng những kinh nghiệm mà trong thực tế tôi đã áp dụng và đã thu được
những kết quả nhất định trong quá trình giảng dạy.
c. Kết quả trước khi thực hiện đề
tài:
Tôi
đã thực hiện khảo sát ở hai lớp 71 và 72 với đề bài:
Hãy viết đoạn văn khoảng một trang giấy A4 cảm
nhận về bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê) của
Hạ Tri Chương
Kết quả thu được như sau:
Lớp |
SL |
Kết quả |
Ghi chú |
|||||||||
G |
K |
TB |
Yếu |
Kém |
||||||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|||
71 |
37 |
4 |
10,8 |
14 |
45,9 |
15 |
32,5 |
04 |
10,8 |
0 |
0 |
|
72 |
36 |
02 |
5,6 |
13 |
36,1 |
14 |
38,9 |
07 |
19,4 |
0 |
0 |
|
2.2. Các giải pháp trong việc dạy thơ Đường ở môn Ngữ Văn 7:
2.2.1. Tiếp
cận tốt tác phẩm:
Tiếp
cận tác phẩm là một bước cực kì quan trọng khi dạy và học một tác phẩm văn
chương nói chung và đặc biệt là đối với một bài thơ Đường nói riêng. Bấy lâu
nay phần lớn giáo viên chưa chú trọng bước này và nghĩ rằng tiếp cận tác phẩm
chỉ là đọc tác phẩm và trả lời các câu hỏi cuối bài. Điều đó chưa đủ khi dạy
một bài thơ Đường. Trước khi dạy một bài thơ Đường tôi đã giúp các em tiếp cận
tác phẩm bằng các việc làm cụ thể như
sau:
a. Phải đọc kĩ phần nguyên tác,
dịch nghĩa và dịch thơ, đối chiếu bản dịch thơ với nguyên tác.
Nguyên tác là biểu hiện trực tiếp những tư
tưởng và những nỗi niềm thầm kín của tác giả. Chúng ta chỉ có thể hiểu đúng,
hiểu đủ và hiểu sâu sắc tác phẩm khi xuất phát và trung thành với nguyên tác
trong quá trình phân tích. Dẫu có nhiều bản dịch thơ hay nhưng không hẳn nó đã
lột tả hết được những điều tác giả muốn gửi gắm trong đó. Bằng cách đối chiếu
với nguyên tác, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra ý tứ sâu xa của nguyên tác
mà nếu chỉ dừng lại ở bản dịch thôi thì chưa đủ.
Ví dụ: Trong bài “Tĩnh dạ tứ ” của
Lí Bạch.
“Sàng tiền
minh nguyệt quang
Nghi thị
địa thượng sương”
(Đầu
giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt
đất phủ sương)
Nguyên
bản “nghi” có nghĩa là “ngỡ là” nhưng bản dịch thơ đã thêm hai từ “rọi” và “phủ”.
Làm thế khiến cho ý vị trữ tình trở nên mờ nhạt và nhiều người lầm tưởng hai
câu đầu chủ yếu thuần túy tả cảnh. Vì học sinh không học ngữ pháp tiếng Hán cho
nên giáo viên phải xác định cho các em biết các động từ quan trọng trong
bài thơ, những từ liên quan đến việc giải thích cảm xúc của tác giả, giải thích
nghĩa các từ vì bản thân chúng có khả năng biểu cảm lớn.
Phần
lớn giáo viên khi dạy thơ Đường chỉ chú ý đến phần dịch thơ và bám vào đó để
phân tích (vì phần phiên âm chữ Hán giáo viên nghĩ là khó nên bỏ qua). Đọc tác
phẩm thơ Đường là phải đọc cả phần phiên âm chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ.
Đặc biệt chú đến phần phiên âm chữ Hán vì phần phiên âm này có lúc đã vượt khỏi
tầm hiểu biết của học sinh, nhưng dù khó đi chăng nữa việc tìm hiểu kĩ phần
phiên âm chữ Hán giúp học sinh bước đầu có cách cảm nhận riêng mà phần dịch thơ
không thể thay thế được. Để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm
trạng, các tác giả dùng những từ ngữ gợi
tả hình tượng, màu sắc, đường nét cho nổi hình trước mắt người đọc. Đồng thời
mỗi bài thơ là một bản nhạc, nhạc của thanh điệu, vần, luật, tiết tấu, đối. Sự hài
hòa về âm điệu, nhịp điệu, sự thống nhất về âm hưởng làm cho bài thơ trở thành
một tấm dệt âm thanh tinh xảo tạo nên một khả năng biểu hiện nội dung mạnh mẽ.
Vì thế yêu cầu đọc thơ phải “Vang hết lời, rung hết nhạc” giúp các em biết lắng
nghe ngôn ngữ nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật ngôn từ, hình thành ở các em
nhu cầu cảm nhận, xúc cảm và rung động chân thành trước mỗi cái hay, cái đẹp
toát ra từ mỗi âm thanh, nhịp điệu, âm hưởng của bài thơ. Với mục đích đó khi
hướng dẫn đọc giáo viên phải hướng dẫn đọc một cách cặn kẽ, hướng dẫn các em
đọc sáng tạo, chú ý cách ngắt nhịp, giọng thơ. Sau đó giáo viên đọc mẫu cả đoạn
thơ hoặc một vài câu thơ, cũng có thể cho các em cảm thụ bài thơ qua các giọng
đọc của các nghệ sĩ mà mình sưu tầm, thu âm được.
b.
Tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Tìm
hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Hiểu được nội dung tác phẩm phải
gắn tác giả với một giai đoạn lịch sử nhất định để học sinh dễ dàng nắm bắt
được ý tưởng của nhà thơ thông qua thời đại, xã hội mà tác giả sinh sống. Không
chỉ có thế bởi thơ là tiếng lòng là tiếng nói của con tim thi nhân nên việc nắm
được hoàn cảnh, tính cách của tác giả, cũng là một việc rất cần thiết để hiểu
được nội dung tác phẩm. Vì vậy trong mục này giáo viên cho học sinh tìm hiểu kĩ
phần chú thích ở sách giáo khoa, thu thập thông tin về tác giả và tác phẩm,
tổng hợp những ý cơ bản, và dẫn dắt học sinh tiếp nhận thông tin qua phương
pháp tái hiện. Bên cạnh đó tôi thu thập các hình ảnh về tác giả, tác phẩm qua
mạng intent, sử dụng powerpoint, trình chiếu trong tiết học gây sự hứng thú,
giúp học sinh hình dung được phong thái, tính cách, tâm tư của nhà thơ, từ đó
tiếp cận nội dung bài thơ một cách dễ dàng.
c. Tìm hiểu bố cục.
Nếu
như bố cục phục vụ cho việc phân tích thì nên tìm hiểu. Còn nếu không, giáo
viên cứ bám vào nội dung để khai thác. Điều này sẽ giúp cho giờ dạy kiến thức rõ
hơn, dễ hiểu hơn.
Trong
thực tế giảng dạy, tôi rút ra kinh nghiệm, nếu cắt ra từng mảng tách bạch, làm
mất đi phần hồn của bài thơ Đường. Ở những bài được đưa vào chương trình 7, đó
là những bài đặc sắc, mẫu mực về nội dung, nghệ thuật. Trong từng câu bao hàm
cả cảnh và tình, cảnh có tình, tình có cảnh, tình lồng vào cảnh, nếu như dạy
phân chia bài thơ sẽ thiếu cảm xúc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cảm nghĩ trong
đêm thanh tĩnh” mà lại chia ra:
+
Cảnh trăng sáng (Hai câu đầu)
+ Tâm
trạng nhân vật (Hai câu sau)
Thì đã đánh mất đi cái hồn của bài
và như vậy cái giá trị của thơ Đường cũng mất. Để cho dễ phân tích và học sinh
dễ cảm thụ cái hay, cái ý tình của tác phẩm, giáo viên phải nghiền ngẫm hướng
đi và đặt ra tiêu đề cho các phần mục. Tiêu đề vừa bao quát được ý, vừa phù hợp
với ý tình, hướng khai thác nội dung. Giáo viên có thể đặt tiêu đề cho bài thơ
này là:
1. Cảnh
trong đêm thanh tĩnh.
2. Cảm
nghĩ của tác giả trong đêm thanh tĩnh.
Với cách đặt này, vừa rõ ràng ý
trong bài, vừa làm rõ chủ đề mà giáo viên lại dễ hướng dẫn cho học sinh cảm
thụ.
d.
Hiểu nghĩa các yếu tố Hán Việt.
Nắm được nghĩa các yếu tố Hán Việt giúp các em
bước đầu nắm được nội dung bài thơ. Các phần chú giải văn bản, giải thích từ
Hán Việt, các điển tích, điển cố trong bài thơ chính là phá vỡ hàng rào ngôn
ngữ, rút ngắn khoảng cách giữa học sinh và các triều đại lịch sử. Việc nắm chắc
nghĩa các yếu tố Hán Việt tạo cơ sở cho học sinh hiểu một cách khái quát nghĩa
của từng câu thơ, để từ đó hiểu được nội dung tác phẩm cao hơn là học sinh biết
vận dụng để giao tiếp phù hợp với văn cảnh.
Sách giáo khoa Ngữ Văn đã giải nghĩa các yếu tố một cách cơ bản, nhưng
với những từ khó hoặc những từ dễ nhầm lẫn, bởi vậy khi lên lớp giáo viên phải lấy thêm ví dụ để học sinh dễ hiểu.
Sử dụng lời giảng thuật để dẫn dắt học sinh tiếp cận văn bản. Sau khi nắm chắc
nghĩa từng yếu tố và nghĩa từng câu. Các em phải biết so sánh phân biệt phần
dịch thơ với nguyên tác. Bởi vì không phải phần dịch thơ nào cũng đạt tới “mười
phân vẹn mười”. Từ đó bước đầu các em cảm nhận được vẻ đẹp của tác phẩm, nét
độc đáo trong tâm hồn, phong cách nghệ thuật của từng câu thơ.
Trong bài “Tĩnh dạ tứ” tác giả cảm nhận được ánh trăng sáng qua tư thế
nằm trên giường từ “sàng” nghĩa là “giường” nói lên điều đó. Nếu thay từ “đình”
có nghĩa là “sân” hoặc những từ ngữ khác thì ý nghĩa của câu thơ sẽ bị giảm
sút. Không còn sự thao thức, trằn trọc, băn khoăn khi nghĩ về quê hương yêu
dấu. Hiểu nghĩa các yếu tố Hán Việt cách so sánh nghĩa giữa bản dịch và nguyên
tác để học sinh thu nhận được kiến thức một cách sâu sắc, toàn diện.
2.2.2.
Định hướng kiến thức cơ bản:
Kiến thức cơ bản là kiến thức cụ thể nhưng ở
dạng tập trung hơn, trừu tượng hơn, làm bộc lộ bản chất của cái cụ thể. Biết
định hướng, làm rõ hệ thống kiến thức cơ bản sẽ tránh bài dạy dàn đều và tràn
lan, làm cho học sinh nhồi nhét quá nhiều thông tin. Đặc biệt ở đây lại là thơ
Đường rất hàm súc và nhiều tầng ý nghĩa. Cùng với nó, đối tượng tiếp cận lại là
học sinh lớp 7. Kiến thức cơ bản ở đây chủ yếu là hướng dẫn các em học sinh tìm
hiểu: hệ thống cảm xúc, rung động và tâm trạng tình cảm, các biện pháp nghệ
thuật và bút pháp chủ đạo của thơ Đường qua bức tranh thiên nhiên sinh động.
a.
Nghệ thuật sử dụng phép đối
- Phép đối trong
thơ Đường là một biện pháp tu từ tạo ra các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh đối lập,
trái ngược nhau nhằm mục đích bổ nghĩa, so sánh, nhấn mạnh, diễn đạt thể hiện
rõ tư tưởng của bài.
- Phép đối có nhiều loại như: đối thanh, đối nghĩa, đối cú, đối ngẫu.
Ví dụ: Bài thơ “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của
Lí Bạch, mới đọc nhiều người ngỡ đây là bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Nhưng thực
ra không phải thế. Bởi Lí Bạch đã không phối hợp các thanh điệu trong mỗi câu
thơ và trong mỗi cặp thơ theo đúng luật bằng trắc của thơ Đường mà viết phóng
túng theo cảm xúc của mình. Các nhà nghiên cứu xếp bài này thuộc thơ “cổ thể”,
tức là thể thơ xuất hiện trước thơ Đường. Một thể thơ trong đó thường có 5 hoặc
7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật và đối ràng buộc. Mặc
dù vậy, tác giả đã sử dụng phép đối trong bài thơ.
Phép
đối trong thơ đòi hỏi các bộ phận tham gia đối phải có số lượng câu, chữ như
nhau, chức năng ngữ pháp hay từ loại giống nhau ở hai vế. Trong bài thơ này,
phép đối đã được sử dụng rất hoàn chỉnh trong hai câu thơ cuối:
“Cử
đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
Các cặp đối: cử - đê, vọng - tư,
nguyệt - hương. Tuy nhiên, hiện tượng trùng chữ hai câu thơ “Cử đầu vọng minh
nguyệt / Đê đầu tư cố hương”, chữ “đầu” ở câu trên đối với chữ “đầu” câu dưới
bị trùng thanh, trùng chữ nhưng ở thơ cổ thể thì cho phép, còn ở thơ Đường luật
thì không được như vậy.
Sau khi
học sinh chỉ ra phép đối thì phải nêu được tác dụng của phép đối khi sử dụng
trong thơ. Hiệu quả của phép đối trên chính là tạo ra sự so sánh để từ đó nhấn
mạnh hai hành động liền mạch trong tâm hồn của một chủ thể trữ tình. Tâm trạng
đầy nhớ nhung, bức bối, thể hiện khi nhìn lên cao gặp vầng trăng sáng - vầng
trăng đơn lẻ, trong hình ảnh ánh trăng vời vợi ấy là những kỉ niệm của quê
hương xa cũ, dù hoạt động hướng ngoại hay hướng nội thì nỗi nhớ quê hương cũng
không vơi đi, cho thấy chủ thể trữ tình cô đơn biết chừng nào, yêu quê hương
tha thiết xiết bao.
b. Xác định bút pháp tả cảnh
ngụ tình “ý tại ngôn ngoại”.
Trước
hết, có thể hiểu “ý tại ngôn ngoại” là ý ở ngoài lời. Nghĩa là không thể nắm
được hết ý nếu chỉ căn cứ vào lời. Một trong những đặc điểm quan trọng của thơ
Đường là ngôn ngữ đạt đến sự tinh luyện, lời thơ ít nhưng ý tứ sâu xa, lời ít ý
nhiều, lời hết mà ý chưa hết. Các nhà thơ Đường ít khi bày tỏ hết lòng mình
trên câu chữ. Dạy học thơ Đường nếu chú ý đến “ý tại ngôn ngoại” sẽ làm nội
dung bài giảng sâu sắc hơn.
Từ xa
xưa, con người vốn gần gũi với thiên nhiên. Mỗi khi có niềm vui hay nỗi buồn,
người ta thường tìm đến thiên nhiên như một người tri âm. Vì vậy nhiều khi
thiên nhiên mang tâm sự nỗi niềm của con người. Đây là biểu hiện của bút pháp
tả cảnh ngụ tình, thông qua cảnh vật để gửi gắm tình cảm.
Ví
dụ: Trong bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch
- Câu 1, 2: mới đọc, ta ngỡ
rằng chỉ tả ánh trăng trong đêm khuya, không có tả tình. Chỉ có một từ “nghi” có
nghĩa là “ngỡ là”, ở trong bài thơ dịch thêm có chữ “rọi” và “phủ”, từ đây dẫn
tới hai câu này chỉ thuần túy tả cảnh, thực ra không phải là tả cảnh mà ở đây
chủ thể cảm xúc vẫn là nhà thơ Lí Bạch: Ông ngỡ ngàng khi đột nhiên thức giấc
giữa đêm khuya nên đã nhìn nhầm “nghi - ngỡ”, ánh trăng rất sáng lúc đó thành
ra sương trắng. Cảnh ở đây chứa đựng cảm xúc của con người, được cảm nhận bởi
con người. Ánh trăng vẫn chỉ là đối tượng cảm xúc của con người, ở đây vẫn có
tình người được lột tả. Vậy hai câu này không phải thuần túy tả cảnh.
- Câu 3, 4: nếu hai câu trên, nhà
thơ tả ngoại cảnh trước, nội tâm sau, thì đến đây, cảnh và tình, cử chỉ và tâm
trạng hài hòa đan xen không thể tách bạch. Trong cái đêm thanh tĩnh ấy, trăng
rất sáng, rất đẹp nhưng lòng người không thể vui với trăng được, mà trái lại dù
ngẩng đầu nhìn trăng hay cúi đầu nhìn đất thì nỗi nhớ quê vẫn khắc khoải
trong lòng. Các động từ cử, vọng, đê, tư (ngẩng - nhìn - cúi - nhớ) liên kết
chặt chẽ với nhau, vừa tả cử chỉ, vừa biểu hiện tâm trạng nhà thơ thật hài hòa
đậm nét. Vậy hai câu này không thuần túy tả tình.
Bốn câu thơ, đan xen vừa tả cảnh
vừa biểu hiện tình cảm nhà thơ, cảnh và tình quan hệ khăng khít trong từng cặp
đôi, khó mà tách bạch.
2.2.3. Xác định được thi
pháp thơ Đường trong các bài thơ:
Yếu
tố làm nên sự hấp dẫn của các bài thơ Đường, dẫn dắt vào thế giới nghệ thuật
của tác phẩm. Đó chính là thi pháp, gồm có các phương diện sau:
- Quan niệm nghệ thuật về con
người trong thơ Đường.
- Không gian và thời gian nghệ
thuật.
- Kết cấu trong thơ Đường.
a.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Đường.
Nhà
văn Gorki nói rằng: “Văn học là khoa học về con người”, tức là con người là chủ
thể, là đối tượng, đồng thời cũng là mục đích cứu cánh của văn học. Sáng tác
văn học là một hoạt động phản ánh và thể hiện con người. Quan niệm nghệ thuật
của con người là hướng ta chủ yếu nhìn về đối tượng văn học, trung tâm quan
niệm thẩm mĩ của nghệ sĩ. Hình thức nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh, miêu tả,
thể hiện nhân vật mang trong nó quan niệm của tác giả.
Con người là yếu tố trung tâm, chi phối các yếu tố thi pháp khác. Bởi thế
xác định được con người trong thơ Đường là xác định được nội dung chính, tư
tưởng, ý nghĩa của bài thơ.
Ví dụ: Trong bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tứ” ta thấy
con người xuất hiện ở đây là con người vũ trụ, luôn khát vọng và hoà hợp với
thiên nhiên. Cả không gian bao la của dãy núi Lư Sơn như thu vào tầm mắt của Lý
Bạch. Từ đó ta có thể thấy được đây là người yêu thiên nhiên, ưa tự do, phóng
khoáng, lãng mạn như một “Tiên thi”.
Trong bài: “Hồi hương ngẫu thư” con người xuất hiện ở đây lại là con
người đời thường, con người hành động, con người chịu nhiều những biến cố thăng
trầm, những bon chen của của cuộc sống. Vì vậy, họ đề cao cái tâm hơn. Đó là
tình cảm, hoài niệm, ưu, sầu, ngậm ngùi, trở thành khách lạ trong khoảnh khắc
đặt chân về cố hương. Qua đó bộc lộ được tính nhân văn giữa con người với con
người, mà chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ tác động sâu sắc đến tình cảm, lẽ sống.
Như vậy nắm được chủ thể trong thơ Đường nghĩa là nắm được linh hồn của văn
bản. Khi khai thác văn bản học sinh sẽ tiếp thu nhanh nhất bức tranh tâm trạng
của nhà thơ, từ đó nắm được ý nghĩa mà tác giả nhắn gửi trong tác phẩm.
b.
Không gian và thời gian nghệ thuật.
Không
gian và gian làm nên hình thức tồn tại của thế giới, của vật chất và cũng là
hình thức tồn tại của con người. sự tồn tại của con người lại là “tòa thiên
nhiên” trong đại vũ trụ.
Không
gian và thời gian trong thơ Đường nó mang tính đối xứng với con người ở vị trí
trung tâm.
Trong bài: “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Tĩnh dạ tứ” từ một điểm nhìn con người
nhìn ra mọi phía, bao quát cảnh vật để tìm ra “cái thần” của bức tranh thiên
nhiên, mới tái hiện được cái hùng vĩ, tráng lệ của cảnh ở đây. Con người được
bao bọc giữa sơn thuỷ hữu tình, giữa mây trời non nước. Không gian mở ra mọi
hướng và tâm hồn con người cũng tương thông với không gian ấy được thể hiện một
cách tinh tế. Từ đó bộc lộ được tình cảm yêu quê hương thắm thiết của tác giả.
Nếu như “Vọng Lư Sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tứ” không gian mở ra mọi hướng, thì ở “Hồi hương ngẫu thư”
lại là không gian đời thường có xu hướng thu hẹp, dồn nén con người vào những
địa dư chật hẹp, những góc sinh hoạt, hoạt động trong thôn xóm, làng mạc cụ thể
của thời đương đại. Vì thế mà tính hiện thực được gợi lên rất rõ nét, vừa có
giá trị phản ánh cuộc sống vừa có giá trị nhân văn sâu sắc.
Không gian và thời gian trong thơ Đường có tính biện chứng. Đó là cái lẽ
mà các nhà thơ dùng không gian để thể hiện thời gian. Thời gian với không gian
thống nhất lại làm nên một thế giới, một cuộc sống, một phong cách bất hủ của
nhà thơ.
c.
Kết cấu trong thơ Đường
- Về niêm luật.
Niêm
luật là sự kết dính, các câu trong bài có luật giống nhau thì gọi là “niêm”.
Khi dạy thơ Đường giáo viên cần phải
luôn chú ý cho học sinh hiểu rõ niêm luật trong thể thơ Đường luật. Đây là vấn
đề rất quan trọng trong việc khai thác cái hay, cái đúng, cái đẹp của tác phẩm.
- Luật bằng trắc.
+ Các chữ không dấu và chỉ có dấu huyền: thuộc thanh bằng.
+ Các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi, ngã: thuộc thanh trắc.
+ Các chữ thứ nhất, ba, năm là bằng hay trắc đều được, nhưng các chữ thứ
hai, tư, sáu phải theo đúng luật bằng trắc.
+ Trong các câu thơ các chữ thứ 2,4, 6 phải đối thanh.
- Ngôn ngữ trong thơ Đường luật.
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, ngôn ngữ là yếu tố thứ
nhất của văn học mà theo quan niệm của người Trung Hoa cho "thơ là
tuyệt đỉnh của văn nghệ".
Ngôn ngữ trong thơ Đường có tính hàm súc. Khiến học
sinh gặp không ít khó khăn trong quá trình hiểu văn bản. Vì thế các em hiểu rõ
những từ ngữ trong bài thơ rất lơ mơ, do đó các em rất khó cảm nhận hết được tư
tưởng mà nhà thơ gửi gắm vào bài viết. Chính vì vậy trước khi tìm hiểu một bài
thơ Đường luật tôi thường yêu cầu học sinh tự tra những từ ngữ đó trong phần
cuối sách ở nhà, để khi đến lớp các em dễ dàng tiếp nhận tác phẩm hơn.
Ngoài ra một yếu tố được coi trọng là yếu tố hoạ,
nhạc "Thi trung hữu hoạ", "Thi trung hữu nhạc". Để làm nổi
bật được "bức tranh" trong bài thơ người ta sử dụng lối văn hình ảnh,
dùng từ ngữ gợi tả hình tượng màu sắc, đường nét cho nổi hình trước mắt người
xem.
Trong thơ Đường thường không có hư từ mà chỉ có
những thực từ gắn kết với nhau theo cấu trúc nội tại, vì thế khi phân tích giáo
viên coi trọng việc khai thác từng tiếng, từng từ, từng hình ảnh kết hợp việc
phân tích, giảng thuật để từ đó học sinh cảm nhận được những tấc lòng của thi
nhân, những nỗi niềm tâm sự thầm kín. Đó chính là sự cô đúc, súc tích được sản
sinh từ một kiểu tư duy nghệ thuật, một thi pháp độc đáo của các nhà thơ xưa.
Tóm lại, xác định được các yếu tố thi pháp là một việc, nhưng cái quan
trọng ở đây là cách vận dụng sát hợp với đối tượng học sinh lớp 7 với những
khái niệm còn xa lạ của thi pháp thơ Đường trong từng bài cụ thể. Để có thể đưa
những vấn đề cao xa, trừu tượng của thi pháp thơ Đường vào đầu óc non trẻ, có
thể đưa bằng nhiều cách như: cụ thể hoá, cảm tính hoá, thậm chí trực quan hoá
các khái niệm thi pháp thơ Đường trong quá trình dẫn dắt và tiến hành dạy các
bài thơ.
Khi vận dụng các yếu tố thi pháp phải linh hoạt, phù hợp với từng bài
thơ. Không cứng nhắc, áp đặt. Làm thế nào để học sinh nắm bắt được nội dung
cũng như giá trị nghệ thuật của bài thơ. Gây được sự hứng thú khi học thơ
Đường, biến cái khó thành cái bình thường, từ chỗ chán nản đến chỗ ham thích,
say mê nghiên cứu thơ Đường. Như vậy thơ được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ có vần
có nhịp nhưng trước hết nó phải là tiếng nói xuất phát từ trái tim. Mục đích
của thơ Đường phải là "ngôn chí", "trữ tình"
2.2.4.Vận dụng phần tổng kết của văn
bản thơ Đường để củng cố, rèn kĩ năng làm văn biểu cảm:
Cùng
với việc bồi dưỡng cho học sinh từ Hán Việt, giáo viên cho học sinh khắc sâu
kiến thức để rèn kĩ năng biểu cảm: cách lập ý, sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả,
bố cục bài văn biểu cảm, luyện nói về văn biểu cảm.
Cách
kết hợp này chính là phương tiện bộc lộ tình cảm, cảm xúc. Để làm được điều đó,
giáo viên cần phải dẫn dắt, tổ chức linh hoạt trong cách thức tổ chức tiết học,
đồng thời tạo điều kiện cho các em tự bộc lộ suy nghĩ, tâm tư, sáng tạo của học
sinh tạo được ấn tượng thẩm mĩ, phát hiện, gợi tìm, đánh giá, tự khám phá, tự
phát hiện, trao đổi.
Như ta đã biết, thời lượng dành
cho văn bản thơ Đường là một tiết học nên giáo viên và học sinh có rất ít thời
gian để cảm thụ tác phẩm. Giáo viên cần phải bình giảng thêm về các chi tiết,
sự việc, các tín hiệu thẩm mĩ để học sinh khắc sâu hơn về tác giả, tác phẩm.
Việc bình giảng, giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo ở những thời điểm thích hợp
để tạo được hiệu quả tiếp nhận và từ đó có kĩ năng thâm nhập, cảm thụ tốt.
Sau khi giáo viên đã giúp học sinh
giải mã những nội dung trong tác phẩm, hiểu đúng đắn thì phần cuối cùng
phải cho học sinh nắm lại nội dung, đặc sắc nghệ thuật, trình bày cảm nghĩ sau
khi đọc bài thơ và dấu ấn của mình về tác giả (tài năng, nhân cách, tình yêu…).
Đây là phần không thể thiếu, vì nó giúp học sinh tái hiện đầy đủ lại nội dung
và giá trị bài thơ, con người tác giả, có nghĩa là ở phần này học sinh biết
được biểu cảm về cái gì, biểu cảm như thế nào và từ đó nâng cao lên thành kĩ
năng làm văn biểu cảm ở lớp 7.
2.2.5. Ứng dụng các thiết bị
dạy học hiện đại vào bài giảng:
Đây là hoạt động khá quan trọng, giáo viên
sử dụng phù hợp sẽ làm cho giờ học sinh động, bớt khô khan, học sinh phát huy
tốt khả năng tư duy, trí liên tưởng, tưởng tượng giúp cho việc cảm thụ sâu sắc
hơn, tuy nhiên tránh lạm dụng công nghệ thông tin để học sinh không bị phân tán
tư tưởng.
- Khai thác
thông tin, tranh ảnh, tư liệu, sách báo, tạp chí, bài giảng từ mạng internet.
- Trong quá
trình tham khảo sách, báo, tài liệu, tranh ảnh đặc biệt cần thiết thì có thể
dùng máy scan quét ảnh để lưu vào USB, cập nhật vào kho tư liệu của mình để
phục vụ quá trình giảng dạy.
- Khai thác từ
băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, bản đồ thông qua chức năng cung
cấp thông tin của máy tính.
Ví dụ: Khai thác các đoạn phim về tác giả, tác phẩm văn học
được chuyển hóa thành phim hoặc các bài hát thì thực hiện thao tác mở các băng
hình, các đĩa CD, lựa chọn các đoạn phim làm tư liệu giảng dạy rồi lưu dữ liệu
làm tư liệu giảng dạy.
- Phần mềm
Powerpoint, đây là phần mềm đơn giản, dễ trình chiếu có tác dụng tích cực và rõ
nét nhất; mỗi slide giáo viên có thể chọn hiệu ứng phù hợp, chọn ngữ liệu phù
hợp với nội dung, hoặc mang tính chất trực quan liên tưởng như đưa các tư liệu
phim, tranh ảnh làm cho bài học sinh động hơn, hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng cần lưu ý sử dụng phải phù hợp cụ thể
với nội dung bài dạy, không lạm dụng mà phải thận trọng, cân nhắc lựa chọn bài
học và giáo viên phải lưu ý đến khả năng lĩnh hội, tiếp thu, ghi chép của học
sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời nhằm ươm mầm cảm xúc, bồi dưỡng tư tưởng thẩm
mĩ cho học sinh từ những tiết học ứng dụng các thiết bị dạy học hiện đại vào
bài giảng góp phần làm đổi mới phương pháp dạy học.
2.3.
Kết quả đạt được sau khi thực hiện đề tài:
Lớp |
SL |
Kết quả |
Ghi chú |
|||||||||
G |
K |
TB |
Y |
Kém |
||||||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
|||
71 |
37 |
6 |
16,2 |
16 |
43,3 |
13 |
35,1 |
02 |
5,4 |
0 |
0 |
|
72 |
36 |
5 |
13,9 |
15 |
41,7 |
12 |
33,3 |
04 |
11,1 |
0 |
0 |
|
Sau
khi áp dụng đề tài này, học sinh hiểu bài hơn, hứng thú hơn, thoải mái hơn mỗi
khi học thơ Đường, có nhiều em cảm thấy khá thú vị và hấp dẫn, đánh thức đam mê
của mình khi tiếp nhận về những bài thơ Đường, đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca
cổ điển Trung Quốc ngay trong mỗi tiết học, giờ học.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1.
Ý nghĩa của đề tài:
Với
việc tiếp cận các phương pháp dạy học tích cực, lấy nghệ thuật truyền cảm hứng
làm phương hướng chủ đạo, theo tinh thần “Lấy người học làm trung tâm” nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, và đặc biệt là bản
thân đã mạnh dạn áp dụng. Vận dụng các thủ thuật vào bài, vào các tiết học nhằm
gây hứng thú cho các em đối với bài học ngay từ những phút đầu tiên của giờ
học, nên kết quả học tập của các em trong những năm qua có sự cải thiện đáng
kể. Các em yêu thích và say mê với bộ môn Ngữ Văn hơn. Trong các tiết học, các
em hứng thú hơn, mạnh dạn, tự tin, và tích cực tham gia vào các hoạt động học
tập hơn, đựơc hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn và có cơ hội để thể hiện
mình nhiều hơn. Từ đó, chất lượng bộ môn cũng tăng lên rõ rệt. Bản thân tôi cảm
thấy tự tin và vững tâm hơn khi đứng trên bục giảng. Ngày càng thêm yêu nghề,
yêu các em học sinh hơn. Đây là chìa khoá, là kim chỉ nam giúp tôi hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy của mình.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh là điều mà mỗi một giáo viên chúng ta phải làm để đáp ứng với mục tiêu
đào tạo cũng như với nhu cầu thời đại. Nhưng đổi mới như thế nào để có hiệu quả
cao trong quá trình dạy học là điều mà mỗi chúng ta nên suy nghĩ, trăn trở,
phải đầu tư thời gian cũng như trí tuệ để tìm tòi, học hỏi và áp dụng một cách
linh hoạt vào từng tiết học cụ thể. Việc thiết kế, vận dụng linh hoạt các thủ
thuật vào bài nhằm gây được sự chú ý của các em học sinh, gây hứng thú đối với
bài học, ổn định được lớp, kiểm tra ôn lại được bài cũ, đồng thời giúp cho học
sinh chuẩn bị được tâm lý và kiên thức cần thiết cho bài mới là điều mà mỗi
giáo viên chúng ta đang mong muốn, đang từng bước áp dụng và đem lại kết quả
cao.
Trong thực tế, những hoạt động và thủ thuật dùng cho việc dạy thơ Đường
có thể cùng một lúc đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, chúng ta nên tìm
cách sáng tạo để có được một cách vào bài sao cho hấp dẫn cho đến hết tiết học,
cùng một lúc có thể đáp ứng được nhiều nhiệm vụ đặt ra ở. Bằng cách đó, chúng
ta đã gây được sự chú ý, gây hứng thú đối với bài học, đồng thời cũng đã giúp
học sinh chuẩn bị được tâm lý và kiến thức cần thiết cho bài mới.
Trên đây là một số vấn đề mà
trong quá trình học tập, tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng trong quá trình giảng
dạy đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn nhằm nâng cao chất lượng học tập của
học sinh mà tôi mạnh dạn đưa ra để các bạn đồng nghiệp, quý thầy cô cùng tham
khảo và đúc rút thêm kinh nghiệm.
Tất nhiên trong đề tài nghiên
cứu sẽ có nhiều vấn đề chưa hợp lý, chưa giải thích một cách thoả đáng. Vậy nên
tôi rất mong các bạn đồng nghiệp, các quý thầy cô đóng góp ý kiến xây dựng cho
đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn, để việc vận dụng đổi mới phương
pháp dạy học ngày một đạt kết quả tốt hơn, đúc rút được nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu đáp ứng được nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
“Hãy phấn đấu để mỗi tiết học Ngữ Văn ở
trường THCS, nhất là học sinh lớp 7 được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều
hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là suy nghĩ được nhiều hơn trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập”.
3.2. Kiến nghị, đề
xuất:
- Mỗi
giáo viên cần đầu tư thời gian hơn cho phần dạy thơ Đường chứ không nên
bỏ qua vì đây là phần quan trọng trong việc truyền cho học sinh ngọn lửa
say mê, hứng thú, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong kết tinh nghệ thuật đỉnh cao
của thơ ca nhân loại.
Để việc dạy thơ Đường đạt kết quả, tôi
xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Đây là mảng văn học khó dạy cho nên nhà trường
tăng cường sách tham khảo về thơ Đường giúp giáo viên có thêm tài liệu để
nghiên cứu.
- Các cấp lãnh đạo nên tổ chức các cuộc hội thảo
chuyên đề về phương pháp giảng dạy thơ Đường trong chương trình THCS. Tổ chức
dạy thể nghiệm rộng rãi để giáo viên dạy môn Ngữ Văn trong toàn huyện đóng góp
ý kiến để giờ dạy các tác phẩm thơ Đường đạt kết quả đúng với vị trí và tầm
quan trọng của nó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Ngữ Văn 7 tập 1 - Nhà
xuất bản giáo dục Việt Nam 2015.
2. Nam Trân thơ Đường, Nhà
xuất bản văn học, Hà Nội 1987.
3. Phương Lựu, Trần Đình Sử,
Nguyễn Xuân Nam - Lí luận văn học, nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 1987.
4. Trương Chính, Nguyễn Khắc
Phi - Giáo trình văn học Trung Quốc, nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 1988.
5. Nguyễn Thị Bích Hải - Thi
pháp thơ Đường, nhà xuất bản Thuận Hóa,
Huế 2006.
6. Trần Đình Sử - Giáo trình
thi pháp học, Trường ĐHSP Huế,1988
7. Ngữ Văn tư liệu Nhà xuất
bản giáo dục, Đỗ Ngọc Thông (chủ biên),
2009
MỤC LỤC
1.
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài ……………….…………………………. Trang 01
1.2. Điểm mới của đề tài ……..………………………………… Trang 02
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu …………………. Trang 02
2.2.
Các giải pháp trong việc dạy thơ Đường ở môn Ngữ Văn 7...Trang 03
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến …………………………………….. Trang 13
3.1. Những kiến nghị, đề xuất …………………………………. Trang 14