1.
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do
chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đất nước ta cũng đang tích cực hội nhập sâu rộng
với thế giới, để có thể hội nhập thành công với thế giới và khu vực thì vấn đề quan
trọng nhất vẫn là phát triển nền giáo dục Việt Nam một cách vững mạnh, toàn
diện. Vì vậy, trong tất cả các chính sách phát triển của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn dành sự quan tâm cho thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp trẻ em “Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai”- đó là câu khẩu hiệu mà mỗi thầy cô giáo đều
phải thấm nhuần trong quá trình giáo dục học sinh một cách toàn diện ở tất cả
các mặt : đức, trí, lao, thể, mĩ. Riêng về mặt học tập, đặc biệt là môn Toán
thì càng cần phải quan tâm, chú trọng nhiều. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình
thành khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng của
học sinh. Môn toán là chìa khóa mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó
là công cụ cần thiết cho người lao động thời hiện đại, nó góp phần giáo dục con
người phát triển toàn diện hơn. Môn toán có vai trò rất quan trọng. Toán học
góp phần hình thành phát triển nhân cách của học sinh. Cung cấp tri thức ban
đầu về số học, các số tự nhiên, các phân số, các đại lượng cơ bản, một số yếu
tố hình học đơn giản, ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Nếu học sinh yếu toán
cũng là đồng nghĩa với việc các em phát triển chưa trọn vẹn, nó ảnh hưởng đến
tương lai của chính bản thân các em và cả xã hội. Ngay từ cấp tiểu học chúng ta
cần tạo nền tảng vững chắc cho các em, bằng cách là không để cho học sinh yếu
toán, đây là vấn đề mà mỗi giáo viên chúng ta cần phải quan tâm.
Bản
thân tôi là một giáo viên dạy lớp 5 ở vùng đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân
tộc Bru-Vân Kiều, trong những năm qua tôi thấy rằng chất lượng môn toán ở một
số học sinh đặc biệt là học sinh Bru-Vân Kiều với khả năng giao tiếp và tư duy
còn hạn chế. Nhiều học sinh vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và
kĩ năng cơ bản nên thực chất vẫn còn tồn tại học sinh yếu, kém về môn toán có
nguy cơ ngồi nhầm lớp. Số học sinh yếu, kém đó chủ yếu là ở khối 4, 5. Bởi vì
lên lớp 4, 5 kiến thức môn toán có thêm nhiều phần mới và mức độ cao hơn. Học sinh
cần phải có sự tư duy trừu tượng để học môn toán.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại
hình, tính cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu
bài học rất nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là
không hiểu gì thông qua các hoạt động trên lớp (Nhất là môn Toán ) môn này có
vị trí rất quan trọng, là một giáo viên chủ nhiệm tôi phải làm gì đối với những
học sinh yếu, kém? Đó chính là vấn đề mà tôi rất quan tâm và nó luôn thôi thúc
tôi trong suốt quá trình dạy học.
Là một
giáo viên phụ trách dạy lớp 5 - lớp cuối cấp Tiểu học - bản thân tôi nhận thấy:
Việc dạy và học giúp các em học sinh yếu môn toán vươn lên trung bình là một
vấn đề không đơn giản.
Xuất phát từ lý do trên tôi đã trăn trở,
nghiên cứu vấn đề và bằng kinh nghiệm bản thân trong quá trình giảng dạy tôi
xin trao đổi và chia sẻ cùng đồng nghiệp “Một
số giải pháp nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu môn Toán lớp 5 ” nhằm góp phần ngăn ngừa và khắc phục tình trạng
học sinh lớp 5 yếu về môn Toán ở trường tôi đang giảng dạy đồng thời góp phần
nâng cao chất lượng dạy học toán ở trường Tiểu học nói chung.
1.2. Điểm
mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Tuy đề tài có thể được nhiều người nghiên cứu
trước đây nhưng điểm mới và khác biệt đề tài này là đối tượng học sinh tư duy
yếu được quan tâm thực hiện đến là học sinh Bru- Vân Kiều nơi mà các em còn ảnh
hưởng nhiều từ chính ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ từ lúc mới sinh ra.
- Đây là một đề tài được nhiều người quan
tâm nhưng không phải ai cũng nhận thức đúng và trăn trở để tìm ra cách
thức hiệu quả nhất. Vì vậy, mỗi người có
một mức độ quan tâm, một cách thức, một biện pháp khác nhau.
- Đề tài bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, các phương
pháp dạy học phổ biến nhằm hình thành cho các em tư duy tính toán trong chương
trình học từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
- Nội dung
của đề tài được chia ra và hướng dẫn cụ thể từng giải pháp giúp giáo viên dạy
cho học sinh dễ dàng tiếp cận gây nên tạo sự hứng thú trong học tập cho
học sinh, kích thích cho các em sự ham học, ham hiểu biết và lòng say mê học
Toán. Tạo một nền tảng vững chắc cho các em tiếp cận kiến thức môn toán về sau
này.
1.3. Phạm vi của sáng
kiến kinh nghiệm:
Phạm vi áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm tập trung vào các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu
về môn Toán lớp 5 ở trường tôi đang dạy nói riêng và trường miền núi có
học sinh là con em Bru - Vân Kiều.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1.Thực trạng
2.1.1. Thực trạng chất lượng môn
toán trên lớp:
Đầu năm học 2017-2018 tôi đã tiến hành khảo
sát chất lượng đầu năm đối với môn toán lớp 5A gồm 30 em trong đó có 18 em là
học sinh Bru-Vân Kiều. Kết quả đạt được như sau:
KẾT
QUẢ KHẢO SÁT ĐẦU NĂM HỌC 2017- 2018
MÔN TOÁN - LỚP 5A
Tổng số HS |
Điểm 9-10 |
Điểm 7-8 |
Điểm 5- 6 |
Điểm dưới 5 |
||||
SL |
TL |
SL |
TL |
SL |
TL |
SL |
TL |
|
30 |
3 |
10% |
8 |
26,7% |
10 |
33,3% |
9 |
30% |
Qua kết quả làm bài của
học sinh thì 9 em học sinh có điểm dưới 5 đều là học sinh Bru-Vân Kiều, các em
còn vướng phải các lỗi sau: Còn chậm trong thực hành tính toán, chưa thuộc bảng
cửu chương; cộng, trừ, nhân, chia có nhớ còn chậm hoặc quên không nhớ; còn lẫn
lộn, quên cách tính cộng, trừ, nhân, chia phân số; kỹ năng giải toán có lời văn
còn yếu.
2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng yếu môn toán:
a) Nguyên nhân từ học sinh:
- Xuất phát điểm các em
so với các bạn còn thấp nên các em tiếp thu bài còn chậm.
- Khả năng học tập của HS rất khác
nhau, cùng một độ tuổi về trình độ chung các em có thể chênh nhau 3 lớp, riêng
về toán có thể chênh nhau 5 lớp.
- Có nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ
năng; tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm.
-
Chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập.
- Khả năng phân tích tổng hợp, so
sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức
chưa chắc, thiếu tự tin.
- Học sinh đi học thất thường, có
em nghỉ học trong một tuần 2 – 3 buổi nên lại xuất hiện lỗ hỏng kiến thức.
- Ở nhà các em chưa tự
giác ôn bài, làm bài, chưa lập được thời gian biểu hằng ngày.
- Không biết làm tính, yếu các kỹ
năng tính toán cơ bản, cần thiết (cộng, trừ, nhân, chia).
- Khả năng chú ý và tập trung vào
bài giảng của giáo viên không bền.
b) Nguyên nhân từ giáo viên:
- Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt
chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng; có những tiết giáo viên còn nói
lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm.
- Giáo viên còn chưa chú ý đúng mức
đến đối tượng học sinh yếu, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu
hiện sa sút của học sinh mà nhiều em đã yếu lại càng yếu.
- Nhiều giáo viên chỉ chú ý đến học
sinh khá, giỏi, thích tổ chức các hoạt động học tập trên lớp với những học sinh
khá, giỏi để tránh xử lí các tình huống phức tạp mất thời gian.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực
quan, tranh ảnh, SGK, còn hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của ĐDDH.
- Giáo viên chỉ chú trọng vào các
em học sinh khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp như vậy các em học yếu không có cơ hội
bộc lộ khả năng của mình và đã ngại học lại thêm tính ì, ngại suy nghĩ, ngại
vận động.
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm
các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học tập của HS, còn tâm lí
trông chờ chỉ đạo của cấp trên.
- Tinh thần trách nhiệm chưa cao,
thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, không đánh giá đúng thực chất của lớp mình
giảng dạy.
c) Nguyên nhân từ phụ huynh:
- Một bộ phận phụ huynh chưa thực
sự quan tâm đến việc học tập của con cái, gần như là khoán trắng việc học tập
của con em cho nhà trường.
- Đa số phụ huynh đều là bà con Bru
- Vân Kiều với đại đa số chưa tốt nghiệp Tiểu học nếu không nói là rất ít người
biết chữ tiếng Việt nên không nắm được cách giải Toán ở Tiểu học khiến cho trẻ
không hiểu và thiếu tin tưởng.
- Một số phụ huynh điều kiện kinh
tế gia đình quá khó khăn không có điều kiện chăm lo cho con em học tập, ở nhà
các em còn phải làm nhiều việc phụ giúp gia đình vì vậy các em đến trường
thường trong trạng thái mệt mỏi, uể oải.
- Một số phụ huynh đi làm ăn xa
phải gửi con cho ông bà, cô bác trông hộ. Các em trong đối tượng này thì bị
thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nên khi học thường không chú tâm vào việc học tập,
thường theo chúng bạn ham chơi.
Từ những thực trạng nói
trên, để nâng cao chất lượng học tập của học sinh, ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng học sinh yếu về môn Toán, tránh để tình
trạng học sinh ngồi nhầm lớp tôi đã suy nghĩ và trao đổi cùng đồng nghiệp đưa
ra “Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả phụ đạo học sinh yếu môn Toán lớp 5 cho học sinh Bru-Vân Kiều ” như
sau:
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu về môn toán lớp 5:
2.2.1.
Xây dựng môi trường học tập thân thiện.
- Sự thân thiện của giáo
viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ,
lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học
sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân
mình.
- Học sinh vừa yếu vừa là con em đồng bào dân tộc
thiểu số còn rất nhút nhát nên giáo viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc
tạo hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy tôi luôn tạo cho bầu không khí lớp
học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các
em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương
yêu và tôn trọng mình.
Ảnh: Giáo viên luôn quan tâm, động viên,
kèm cặp thường xuyên.
- Trong lớp học có nhiều
đối tượng học sinh riêng học sinh yếu thường hay mặc cảm so với bạn nên việc
xây dựng một môi trường học tập thân thiện, tạo sự hòa đồng trong bạn bè là rất
cần thiết, giúp cho các em gạt bỏ sự tự ti, nhút nhát tạo tiền đề cho các em
ham thích học tập.
Bên cạnh đó, tôi phải là người đem lại cho
các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như tôi nên thay vì chê bai bằng khen
ngợi và tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi
các em.
2.2.2. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình
hình cụ thể và phân loại học sinh yếu trong môn toán.
Theo dõi kết quả làm
bài tập trên lớp và làm bài tập về nhà hàng ngày, theo dõi kết quả kiểm tra
định kỳ, sớm phát hiện ra các trường hợp học sinh có khó khăn trong học tập và
đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ thể, phân tích đúng nguyên nhân dẫn đến tình
hình đó đối với các em.
- Ngay từ đầu năm học,
tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về môn Toán.
- Lập danh sách và phân
loại học sinh yếu, kém về môn Toán, phân tích nguyên nhân.
-
Tôi phải xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có
của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng
của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng
tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, do hổng kiến thức, kỹ năng từ
lớp dưới, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do trí tuệ chậm phát triển...
- Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho
các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí
đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập,
các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Thực hiện theo kế
hoạch, tôi đã khảo sát và phân loại học sinh yếu môn toán theo các nhóm nguyên
nhân chủ yếu như sau:
+ Nhóm khả năng tiếp
thu bài chậm, chưa chăm học, hổng kiến thức lớp
dưới như chưa thuộc bảng nhân, bảng chia, chưa biết cách thực hiện các
phép tính với phân số, giải toán có lời văn còn yếu: nhóm này có 5 em. (Hồ Văn Hưng, Hoàng Xuân Hoàn, Hồ Thị Xanh,
Hồ Văn Ngọc, Hồ Thị Duyên)
+ Nhóm do hoàn cảnh gia
đình và các nguyên nhân khác: nhóm này có 4 em (Hồ Thị Nguyên, Hồ Thị Phương, Hồ Thị Thu Nguyên, Hoàng Thị Tuệ ).
Trong nhóm này các em có khả năng tiếp thu bài tốt. Nhưng vì điều kiện gia đình
khó khăn không có người chăm lo, đôn đốc học tập nên các em chưa tích cực học tập,
không hoàn thành nhiệm vụ học tập, dẫn đến kết quả học tập sa sút và liên tục
bị điểm yếu.
2.2.3.
Lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu về môn toán phù hợp
với đối tượng học sinh.
Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu, kém về môn Toán của
từng em, tôi đã lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu, kém
với yêu cầu:
+ Ngay trong những tiết
học Toán đầu năm, tôi đã lập kế hoạch, tham khảo với đồng nghiệp về việc sử
dụng, kết hợp các phương pháp dạy học để giúp các em tiến bộ hơn. Ngoài ra, chủ
nhật hàng tuần cần tới nhà học, trao đổi với phụ huynh, quan sát góc học tập,
xem thời gian biểu của các em và góp ý bổ sung. Từ đó, nhờ phụ huynh kèm thêm ở
nhà, theo dõi, kiểm tra ở lớp.
+
Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức
đã học cho học sinh.
+ Đặc biệt giúp các em củng cố những
kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của lớp dưới mà các em
còn bị hỏng. Như nhớ được bảng nhân, bảng chia, giải được một số dạng toán cơ
bản đã học ở lớp dưới... Mục đích là lấp lỗ hỏng về kiến thức cho học sinh.
Một
số nội dung phụ đạo học sinh học yếu môn toán lớp 5:
+ Khảo sát, tìm hiểu
nguyên nhân, phân loại học sinh.
+ Củng cố về bảng nhân,
bảng chia
+ Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với
củng cố về các phép tính với phân số.
+ Củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên, phân
số kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn.
+ Tiếp tục củng cố về
bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên, phân số kết hợp với củng
cố về giải toán có lời văn.
+ Tiếp tục củng cố về
bốn phép tính với số tự nhiên, phân số, củng cố mối quan hệ các đơn vị đo lường
và vận dụng làm toán có lời văn...
Cứ tiếp tục như vậy,
nội dung các buổi phụ đạo sau phải có sự củng cố lại những kiến thức đã học ở
các buổi học trước và tập trung chủ yếu vào củng cố cho học sinh kĩ năng thực
hiện thành thạo bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên, với phân
số cũng như số thập phân ở học kì I. Nội dung củng cố kĩ năng thực hành làm
tính, giáo viên linh hoạt bằng nhiều bài toán khác nhau. Có thể là các dạng bài
như: đặt tính rồi tính; tính giá trị biểu thức; tìm x; toán có lời văn… Phải
cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần một dạng bài tập để các em thành thạo.
Việc củng cố kiến thức đã học thực hiện đồng thời với việc dạy kiến thức mới
của lớp 5. Căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, giáo viên
giúp học sinh yếu tiếp thu những kiến thức và làm bài tập vừa sức với các em.
+ Cuối tuần kiểm tra 1
lần, cuối mỗi tháng, mỗi kỳ có bài kiểm tra theo dõi kết quả học tập của các
em. Lập sổ theo dõi quá trình phụ đạo, nâng bậc học sinh yếu (suốt cả năm học).
+ Kết hợp chặt chẽ với
gia đình và nhà trường. Thường xuyên liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ
huynh học sinh, thường xuyên đến thăm và động viên gia đình học sinh ít nhất 1
tháng 2 lần.
+ Thời gian phụ đạo chủ
yếu vào các buổi chiều trong tuần (sau tiết 3 buổi chiều với thời gian là 1 giờ
đồng hồ), lồng ghép vào chương trình chính khoá đối với những em hỏng kiến thức
thì có thể cho các em học chương trình riêng để theo kịp kiến thức và với một
số tiết hoạt động tập thể hay giờ giải lao (trong đó tổ chức các trò chơi có
nội dung toán học).
+ Kế hoạch bồi dưỡng
phải có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể là: cuối học kì I không còn tình trạng học
sinh bị hỏng kiến thức đã học. Học kì II, các em học đến đâu phải đạt yêu cầu
đến đó (theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình toán lớp 5). Đến
cuối năm học, không còn học sinh nào học yếu môn toán.
2.2.4. Có kế hoạch phụ đạo một cách
khoa học, cụ thể từng phần rõ ràng, theo thứ tự từng bước cụ thể:
Giúp đỡ học sinh học yếu môn toán là việc làm khó, đòi hỏi người giáo
viên phải có lòng nhiệt tình và kiên trì, yêu thương học sinh. Vì vậy, giáo
viên khi thực hiện kế hoạch phụ đạo học sinh yếu không được nóng vội, phải thực
hiện kế hoạch theo từng
bước hợp lí.
Căn cứ vào nguyên nhân học sinh yếu từng phần tôi đã có kế hoạch kèm cặp
những nội dung sau:
Nội dung
1: Ôn lại 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự
nhiên cơ bản.
Học sinh học yếu môn
Toán 5 là do khả năng tiếp thu bài chậm, còn hỏng kiến thức từ lớp dưới, vì thế
đã học lên lớp 5 nhưng các em này vẫn chưa thuộc bảng nhân, bảng chia đã học,
còn yếu trong việc vận dụng bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia để giải toán có
lời văn. Điều đó rất bất lợi cho các em trong quá trình học toán ở lớp 4 và lên
lớp 5. Để các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, tôi xác định
việc làm đầu tiên dạy lại những kiến thức cơ bản giúp học sinh lấp được lỗ hỏng
kiến thức.
Vì vậy, tôi đã giao cho
học sinh yếu cứ mỗi tuần phải học thuộc 3 đến 5 bảng nhân, bảng chia, mỗi buổi
học giáo viên dành 5 phút với buổi chính khoá, 15 phút với buổi phụ đạo để kiểm
tra việc học của học sinh. Cuối tuần giáo viên lại tổ chức cho các em thi đọc
bảng cửu chương (15-20 phút).
Sau hai tuần đầu tôi
kiểm tra đã nhận thấy rằng: Các em đều học thuộc bảng nhân, bảng chia nhưng khi
vận dụng làm một phép tính cụ thể (VD: 180 : 5) thì có em làm được nhưng rất chậm,
có em không làm được. Tôi trăn trở tìm nguyên nhân, thì ra các em chỉ thuộc
"vẹt" bảng nhân, bảng chia nhưng chưa hiểu được cách nhân, chia những
số lớn hơn.
- Tôi phải điều chỉnh
cách dạy giúp các em hiểu rõ hơn bản chất của các phép tính:
+ Đầu tiên tôi phải lấp
những lổ hỏng kiến thức cơ bản cho học sinh.
+ Đưa ra nhiều ví dụ cơ
bản nhất về cách cộng, trừ, nhân, chia cho học sinh hiểu.
+ Tiếp theo bắt buộc
học sinh phải thực hành làm tính những bài tập đơn giản đến khó hơn
+ Dần giúp cho các em
thực hiện được các bài tập thành thạo.
Tiếp theo tôi điều chỉnh cách kiểm tra, phải
chỉ định học sinh đọc bảng nhân, chỉ rõ bản chất của phép nhân là kết quả của
phép cộng của các số bằng nhau, hướng dẫn các em học thuộc nhừ bảng nhân 5,
thuộc nhừ cách tính một số nhân với mười để các em dựa vào đó tìm kết quả phép
tính nhân, chia trong bảng khi chưa thuộc lòng. Đến tuần sau, vào các buổi
chiều phụ đạo HS yếu, kém tôi thay đổi hình thức kiểm tra, khác với các tuần
trước.
Ảnh: Tổ chức trò chơi học tập nhằm
ôn lại bảng nhân, chia.
Ảnh: Cho
học sinh ôn lại bảng nhân, chia ở lớp.
Không những yêu cầu các
em học thuộc bảng nhân, bảng chia mà giáo viên còn phải giao cho các em về nhà
viết lại nhiều lần thay cho bài kiểm tra và được giáo viên chấm điểm chặt chẽ
các bài này. Ngoài ra giờ ra chơi hay giờ giải lao của buổi học, giáo viên phải
gần gũi và nói chuyện với các em, lồng vào đó là những mẫu chuyện vui về toán
học, những câu đố đơn giản đố các em về phép nhân hay phép chia. Các em đã thi
nhau trả lời và như vậy đã giúp các em dễ nhớ được bảng nhân, bảng chia đã học
ở lớp 2,3.
Một số lưu ý khi ôn tập lại cách cộng, trừ, nhân, chia cho học
sinh:
+ Kĩ năng cộng, trừ các số có nhiều chữ số:
- Đặt tính đúng (các hàng phải thẳng cột với nhau).
- Thực hành tính từ phải sang trái, lần lượt từ trên xuống dưới.
- Thử lại để kiểm tra kết quả.
+ Kĩ năng nhân:
- Đặt tính.
- Thực hiện nhân: Viết các tích riêng thật đúng, thật thẳng hàng
với nhau. Mỗi tích riêng sau lùi sang trái một hàng so với tích riêng trước.
+ Kĩ năng chia:
Yêu cầu:
- Học sinh phải nắm thật chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều
chữ số.
- Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng
thương.
- Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là
phép chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả
cộng, trừ, nhân, chia). Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi
luôn hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính
(giữa phép cộng và phép trừ, giữa phép nhân và phép chia, ....).
Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài
nhanh, cần cung cấp cho học sinh thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước
lượng được nhanh hơn.
Nội dung
2: Ôn tập lại cách giải toán.
Tiếp sau khi ôn lại cách tính toán thì việc
giải toán sẽ dễ dàng hơn đối với các em. Bởi
vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai hoặc biết tính toán
nhưng cách giải sai dẫn đến bài toán giải sai. Vì vậy sau khi các em làm thành
thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì chú ý đến việc giải toán có lời văn.
Tôi đã củng cố cho học
sinh cách giải các dạng toán điển hình của lớp 4 kết hợp với củng cố kỹ năng tính toán với bốn
phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Vì học sinh yếu có đặc điểm là rất ngại, thậm
chí sợ làm toán có lời văn vì khả năng tư duy “phân tích, tổng hợp của các em
còn nhiều hạn chế” nên chưa có khả năng phán đoán suy luận. Do đó, khi làm toán
có lời văn các em giải chưa đúng, tính toán còn sai. Có em giải “bừa” cho xong. Vì vậy, khi củng cố kĩ
năng giải toán có lời văn cho học sinh yếu thì chỉ cần ra với dạng cơ bản nhất,
đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố lý thuyết mà thôi. Không nên ra
những bài lắt léo hay những bài phải qua bước trung gian mới về dạng cơ
bản. Đến khi học sinh lấp được những chỗ
hổng kiến thức đã học thì mới nâng dần mức độ lên.
* Một số dạng toán điển hình lớp 4 cần phải ôn tập
củng cố là:
- Dạng bài tìm hai số
khi biết tổng và hiệu của hai số đó
Ví dụ: Lớp 5A có 24 học sinh, trong đó số
bạn nam nhiều hơn số bạn nữ là 4 bạn. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu bạn nam? bao
nhiêu bạn nữ?
Các bước: + Tóm tắt bài
toán cho học sinh hiểu
+ Lớp có tổng
bao nhiêu học sinh? Hiệu học sinh nam với nữ là bao nhiêu?
+ Muốn tìm số bạn nam ta làm như thế nào?
Bạn nữ?....
- Dạng tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của
hai số đó
Ví dụ: Tống của hai số là 121. Tỉ số của
hai số đó là . Tìm
hai số đó.
- Dạng bài có liên quan
đến rút về đơn vị:
Ví dụ: Một ô tô đi trong 2 giờ đi được
90km. Hỏi trong 4 giờ ô tô đó đi được bao nhiêu ki-lô-mét?
- Dạng bài tính diện
tích hình chữ nhật, hình vuông…..
Đối
với những dạng trên tôi cho học sinh phân tích đề toán nhiều lần, tôi gợi mở
những câu hỏi cho học sinh dễ hiểu. Sau khi học sinh hiểu được cách làm thì mới
thôi.
+
Cho học sinh giải đi giải lại nhiều bài tập có liên quan đến các dạng toán đó.
+
Thường xuyên kiểm tra bài làm của học sinh về các dạng Toán cơ bản trong đó có
so sánh đối chiếu các dạng toán; chấm chữa tỉ mỉ, chỉ ra chỗ sai của học sinh
đồng thời giải thích em đã sai do đâu, yêu cầu học sinh đó làm lại nếu cần.
+
Với những bài toán lời văn cần cho học sinh hiểu đề bài, phân tích tỉ mỉ đưa
ra hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh biết cách giải.
Để kết hợp tốt giữa lấp
lỗ hỏng kiến thức và dạy kiến thức mới, tôi củng cố kĩ năng giải các bài toán
điển hình lớp 4 trong những tuần đầu của năm học (khoảng 4 đến 6 tuần đầu). Khi
hướng dẫn cho học sinh cách giải và trình bày bài giải, giáo viên phải hướng
dẫn gợi mở từng bước cụ thể, giúp học sinh thể hiện khả năng giải toán của mình
là cần thiết. Vì vậy giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu kĩ đề
bài toán, tóm tắt đề bài toán, nhìn vào tóm tắt đọc lại đề bài toán. Đặt những
câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh từng bước tìm cách giải và chọn cách giải hợp
lý nhất, ngắn gọn nhất, lời giải rõ ràng chính xác, đúng nội dung bài toán yêu
cầu tìm gì (phân tích bài toán ngược cho học sinh hiểu). Đồng thời chú ý hướng
dẫn các em khi thực hiện tìm kết quả của phép tính cần làm ra nháp cẩn thận,
kiểm tra kết quả rồi mới viết vào bài làm. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh
phát triển tư duy.
Nội dung
3: Quan
tâm động viên kịp thời học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Với những đặc điểm của
học sinh yếu, kém nói chung và môn toán nói riêng, tôi đã khẳng định rằng học
sinh yếu, kém môn Toán cần được quan tâm, hỗ trợ dạy học một cách tích cực. Còn
với học sinh học yếu nguyên nhân do điều kiện hoàn cảnh gia đình tôi luôn dành
sự quan tâm đặc biệt cho các em. Ngoài việc tích cực hỗ trợ cho các em lấp lỗ hỏng
kiến thức đồng thời phải có sự quan tâm đặc biệt về tình cảm và vật chất. Vì
vậy tôi thường xuyên đến thăm một số gia đình học sinh yếu trong lớp như gia
đình em Xanh, em Nguyên, em Ngọc... và một số gia đình học sinh khó khăn khác.
Cảm thông được nỗi vất
vả của các em, tôi đề nghị Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ cho các em quần áo,
sách vở, kết hợp cùng với Đội Thiếu niên nhà trường trao quà cho các em trong
dịp Tết Nguyên đán.
Ảnh:
Tặng quà cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn đầu năm học
Bản thân tôi cũng
thường mua cho các em sách vở và đồ dùng học tập cần thiết. Nhận được sự quan
tâm, động viên kịp thời của nhà trường cũng như của giáo viên chủ nhiệm, gia
đình các em đã hiểu và tạo điều kiện cho các em đi học đầy đủ.
Khi ở trường, trong giờ
học, giờ ra chơi, thường xuyên gần gũi, tâm sự với các em, kể cho các em nghe
một số tấm gương biết vượt khó trong học tập (đó là gương những anh, chị, những
thầy cô giáo là người Bru - Vân Kiều như các em đã vượt khó vươn lên), giúp các
em khỏi mặc cảm với số phận và cố gắng vươn lên trong học tập.
2.2.5. Sử dụng các phương pháp và
hình thức dạy học phù hợp đối tượng học sinh.
a. Tận dụng ngay học sinh khá, giỏi,
nhóm trưởng để kèm cặp học sinh yếu, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản.
Trong
một tiết học với thời lượng từ 35 đến 40 phút một giáo viên ngoài việc tổ chức
các hoạt động học tập cho học sinh cả lớp còn phải chú ý đến tất cả các đối tượng
học sinh trong lớp đặc biệt là học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém, tuy nhiên
thời gian có hạn nên lớp có từ 5-6 học sinh yếu thì giáo viên không có đủ thời
gian để hướng dẫn tỷ mỷ đến tất cả các em học sinh yếu do đó đôi khi một số học
sinh yếu bị bỏ rơi. Chính vì thế tôi áp dụng tổ chức lớp học và áp dụng linh
hoạt phương pháp dạy học theo mô hình trường mới chú ý việc kiểm soát của nhóm
trưởng và sự hướng dẫn của nhóm trưởng với học sinh yếu.
-
Giao cho hội đồng tự quản, trưởng ban học tập, nhóm trưởng thường xuyên kèm cặp
hướng dẫn, kiểm tra việc học của các học sinh này.
-
Nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị của các bạn học sinh yếu qua
giờ truy bài, hoặc trong mỗi giờ học, chỉ ra chỗ sai hoặc giảng lại chỗ bạn
chưa hiểu, yêu cầu bạn tự làm bài hoặc làm lại bài khi sai. Nhóm trưởng, trưởng
ban học tập có thể trao đổi lại với giáo viên chủ nhiệm về bạn mình được phân
công kèm cặp khi cần.
Ảnh: Các bạn khá, giỏi hướng dẫn các bạn học yếu làm bài
-
Trong hoạt động nhóm tôi tư vấn cho nhóm trưởng thường xuyên gọi các bạn học
yếu này đại diện cho nhóm báo cáo ý kiến thảo luận của nhóm mình. Phân cho nhóm
trưởng kiểm tra, giúp đỡ việc chuẩn bị bài, hướng dẫn các bạn học yếu trong quá
trình làm bài tập, vận dụng lí thuyết vào thực hành.
b.
Linh hoạt sử dụng phương pháp dạy học khi tổ chức các hoạt động học tập.
Để thực hiện việc lấp
"lỗ hỏng" kiến thức cho học sinh yếu, kém toán có hiệu quả và dạy
kiến thức mới tôi đã trao đổi với đồng nghiệp để tìm ra những phương pháp
giảng dạy thích hợp, tập trung các yêu cầu quan trọng nhất, đó là giúp các em
làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với mức độ yêu cầu vừa sức để
các em nâng dần trình độ; không nôn nóng sốt ruột, khắc phục tình trạng ngại khó
của học sinh.
- Trong các tiết học
giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được hoạt động cho dù là đối tượng
học sinh giỏi hay học sinh yếu. Bằng mọi cách phải lôi cuốn các em tham vào các
hoạt động học tập, tránh tình trạng giáo viên để học sinh ngoài lề. Trong một
tiết học, đến phần bài tập giáo viên phân bài cho từng đối tượng học sinh:
Ví dụ: Học sinh yếu làm những bài tập dễ
hơn những đối tượng học sinh khác. Chẳng hạn tiết Toán: Luyện tập chung(SGK-
trang 15) tôi cho học sinh yếu làm bài tập 1a,b, 2a còn những học sinh khác làm
bài tập 1,2,4,5.
- Cần thực hiện linh
hoạt khi tổ chức các hoạt động học tập. Như trong quá trình dạy bài mới, nếu có
học sinh không nắm được kiến thức mới do hổng kiến thức lớp dưới hoặc kiến thức
bài học trước thì thực hiện như sau: Trong phần bài mới vẫn cho học sinh theo
dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện tập, giáo viên cho những
học sinh yếu làm các bài mà kiến thức liên quan đến lớp dưới, cho học sinh nhắc
lại kiến thức cũ rồi hướng dẫn phần kiến thức mới của bài học.
Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 45,6 x
23,4 = ? với bài này học sinh làm không
được chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân (có 2, 3, 4, 5). Vậy giáo viên yêu
cầu học sinh đọc lại các bảng nhân cho thuộc. Tức là phát hiện học sinh hổng
kiến thức ở đâu thì giáo vên phải linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy để ôn tập,
bổ sung ở đó.
- Trong các buổi dạy
phụ đạo, nội dung chủ yếu là kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy
trên lớp hoặc ôn tập, củng cố kiến thức để các em nắm chắc hơn. Trong mỗi tiết
dạy, xác định rõ mục tiêu của từng bài, từng hoạt động của học sinh dưới sự
hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên.
c.
Gây hứng thú học tập cho học sinh.
Bởi vì học sinh yếu,
kém vốn ngại học, ngại bày tỏ ý kiến nên để cuốn hút các em tích cực tham gia
các hoạt động học tập thì giáo viên phải có những hình thức tổ chức các hoạt
động học tập gây được hứng thú cho tất cả học sinh tham gia, kể cả học sinh
yếu.
Để gây hứng thú cho các
em học tập thì trong các tiết học tôi vận dụng các hình thức dạy tích cực như:
Tổ chức hoạt động nhóm (hoặc tổ chức làm bài theo hình thức tiếp sức) có thi
đua giữa các nhóm, tất cả các thành viên trong nhóm đều được giao phần việc làm
vừa sức phù hợp với năng lực từng em, các nhóm học tập linh hoạt thay đổi như
nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm cùng trình độ, nhóm ngẫu nhiên...
Giáo viên phải tạo cơ
hội cho tất cả các em được phát biểu, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu.
Động viên khuyến khích
kịp thời khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất để học sinh yếu mạnh dạn, tự
tin hơn.
Thường xuyên tổ chức "Hội vui học tập" vào các
tiết hoạt động tập thể. Hoặc tổ chức trò chơi có lồng nội dung Toán học: Hái
hoa dân chủ, Tuổi thơ khám phá…
Thường xuyên tổ chức
các trò chơi học tập lồng ghép vào các tiết toán và tạo điều kiện cho những bạn
học yếu tham gia tích cực.
Ảnh: CTHĐTQ tổ chức trò chơi nhằm tạo hứng
thú học tập
2.2.6. Phối hợp với nhà trường bồi
dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn.
Sinh hoạt chuyên môn ở
trường Tiểu học là một hoạt động nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực
sư phạm cho giáo viên. Sinh hoạt chuyên môn góp phần tháo gỡ những khó khăn
trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ năm học. Sinh hoạt chuyên môn
còn góp phần bồi dưỡng giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu
học.
Với tầm quan trọng của
việc sinh hoạt chuyên môn như vậy, trong sinh hoạt chuyên môn của nhà trường các
tổ chuyên môn không thiên về việc chỉ lên kế hoạch hoạt động chuyên môn mà chú
trọng việc đưa các vấn đề vướng mắc trong chuyên môn và thực tế dạy học để thảo
luận cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo
dục học sinh đạt hiệu quả hơn.
Thực hiện công tác
chuyên môn, tôi đã tham mưu với chuyên môn thực hiện chuyên đề “Một số biện
pháp kèm cặp học sinh học yếu ”. Đây là một nội dung chủ yếu và xuyên suốt quá
trình sinh hoạt chuyên môn của trường trong năm học 2017 - 2018. Bởi vì để thực
hiện tốt mục tiêu “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục ...” thì
việc “khắc phục tình trạng học sinh học yếu” là đã thực hiện tốt việc nâng cao
chất lượng giáo dục một cách thực chất.
2.3.
Kết quả:
Từ các biện pháp trên, với sự cố gắng, quan tâm sát sao của giáo
viên, sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo
viên và phụ huynh học sinh, kết quả học tập của học sinh đã tăng lên rõ rệt. Các
em đã mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác, ham
học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình
học toán, các em dần dần biết cách phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới và cách
giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ
thể qua điểm số. Cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà trường, tích cực
ủng hộ việc dạy học của nhà trường. Sự
tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
KÊT
QUẢ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ II - NĂM HỌC: 2017- 2018
MÔN TOÁN - LỚP 5A
Tổng số HS |
Điểm 9-10 |
Điểm 7-8 |
Điểm 5- 6 |
Điểm dưới 5 |
||||
SL |
TL |
SL |
TL |
SL |
TL |
SL |
TL |
|
30 |
7 |
23,3% |
11 |
36,7% |
12 |
40% |
0 |
0% |
So sánh với kết quả khảo sát đầu
năm tôi nhận thấy:
Nhờ thực hiện tốt các
giải pháp phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán mà chất lượng học tập môn Toán
được nâng lên rõ rệt. Tất cả học sinh yếu môn toán ở đầu năm học lớp đã nâng lên
loại trung bình có em đã đạt điểm khá. Không phát sinh thêm học sinh nào yếu về
môn Toán. Số lượng học sinh yêu thích môn Toán ngày càng tăng.
Ảnh:
Bài làm của học sinh trước và sau thời gian phụ đạo.
3.
PHẦN KẾT LUẬN
3.1.
Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
-
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi
thấy công việc giảng dạy của tôi đạt kết quả rất cao, học sinh tự tin hơn trong
học tập, các em đều ham học và có ý thức phấn đấu cao, bản thân tôi được phụ
huynh tin tưởng hơn.
Muốn khắc phục và giảm
thiểu số học sinh yếu, kém để nâng cao
chất lượng giáo dục và chất lượng dạy -
học ngày một đi lên và có những biện pháp dạy và học đáp ứng được với sự
phát triển của đất nước, thì đòi hỏi sự vào cuộc thật sự của các nhà quản lí
giáo dục, giáo viên, học sinh và tất cả các lực lượng xã hội có liên quan đặc
biệt là vai trò của người giáo viên. Đó là:
- Người giáo viên phải thực sự yêu
nghề mến trẻ, tận tâm, tận lực để giáo dục và phụ đạo các em với tất cả tâm
huyết của mình.
- Để không còn học sinh yếu trước hết cần phải tiến hành việc
điều tra, tìm hiểu cụ thể từng đối tượng học sinh cũng như theo dõi sự chuyển
hoá của từng em. Trong từng thời điểm cụ thể mà có biện pháp phụ đạo phù hợp
cho từng đối tượng học sinh.
- Vận dung các phương pháp dạy học
phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh. Đặc biệt, nếu học sinh bị hỏng kiến
thức từ lớp dưới thì giáo viên phải dạy lại nội dung đó vào các buổi học tăng
cường hoặc trong ngay tiết học chính khoá để "lấp lỗ hỏng kiến thức"
cho học sinh.
- Tổ chức các giờ dạy một cách linh
hoạt, biết vận dung các trò chơi học tập để kích thích sự hứng thú của học
sinh.
-
Giáo viên nên động viên, khen ngợi kịp thời các học sinh có tiến bộ nhằm thúc
đẩy tinh thần thi đua học tập của các em.
- Khi thực hiện phụ đạo học sinh yếu cần tránh xúc phạm đến
nhân cách của học sinh, giáo viên cần có thái độ phù hợp và phải có tính kiên
trì, yêu thương gần gũi với học sinh.
- Áp dụng thường xuyên các biện
pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn toán song song với các môn học khác đối với
tất cả học sinh yếu các khối lớp.
- Tổ chức cho học sinh khá giỏi
thường xuyên giúp đỡ những bạn yếu, kém về cách học tập, về phương pháp vận
dung kiến thức, giúp các em có phương pháp học tập tốt.
- Thường xuyên liên lạc, trao đổi
với phụ huynh học sinh về kết quả học tập của các em (mối tháng ít nhất tới
thăm nhà phụ huynh 2 lần đối với trường miền núi có học sinh là con em Vân
Kiều). Biết thông cảm và chia sẻ với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, giúp
các em xoá bỏ những mặc cảm và biết vươn lên trong học tập.
3.2.
Kiến nghị, đề xuất:
- Qua quá trình thực hiện và giảng dạy nhiều năm tôi thấy có
những khó khăn cần đề xuất, kiến nghị như sau:
- Cần quan tâm tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém vì
chất lượng của học sinh do người thầy quyết định, nếu thầy cô không quan tâm
đến học sinh thì chất lượng giáo dục sẽ không có hiệu quả.Vậy đây là một vấn đề
hết sức quan trọng
- PGD, BGH nhà trường và giáo viên đứng lớp cần
kiên quyết thực hiện đúng nội dung cuộc vận động Hai không với 4 nội dung của
BGD&ĐT, tránh để học sinh ngồi nhầm lớp chỉ vì thành tích.
- Tạo điều
kiện về không gian và thời gian cho giáo viên phụ đạo học sinh yếu kém
Trên đây là một số
giải pháp khắc phục và ngăn ngừa tình trạng học sinh yếu, kém về môn toán lớp 5
trong việc dạy phụ đạo học sinh yếu về môn Toán cho học sinh lớp 5 (Bru – Vân
Kiều) tại xã biên giới đã được tôi áp dụng trong giảng dạy và thu được kết quả khả
quan. Trong quá trình dạy học, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm ra những giải
pháp hữu hiệu hơn nữa để vận dụng vào dạy và phụ đạo học sinh yếu, kém nhằm đem
lại hiệu quả cao nhất trong dạy học.
Do khả năng nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, với thời gian có hạn do đó không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến trao đổi, đóng góp bổ sung của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học.