Skkn Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9

 DVTUAN.COM tổng hợp và chia sẻ đến thầy cô sáng kiến: Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay thì giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của tất cả các quốc gia là đào tạo con người phát triển toàn diện. Tổ chức khoa học giáo dục thế giới UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng nghị luận xã hội vào chương trình Ngữ văn bậc trung học cơ sở hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục trên.

Nghị luận xã hội là phưong pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với học sinh THCS, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho các em những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc sống;  đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho các em về những vấn đề có tính hai mặt của đời sống xã hội đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ.

Như chúng ta đã biết trong cấu trúc đề thi cấp huyện, cấp tỉnh, hay thi vào THPT môn Ngữ văn những năm gần đây đều có câu hỏi, yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn khoảng 300 từ (hoặc một trang giấy thi).

 Học sinh phải biết bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. Ở kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh qua những trải nghiệm của bản thân, trình bày những hiểu biết, ý kiến, quan niệm, cách đánh giá, thái độ...của mình về các vấn đề xã hội, từ đó rút ra được bài học (nhận thức và hành động) cho bản thân. Để làm tốt khâu này, học sinh không chỉ biết vận dụng những thao tác cơ bản của bài văn nghị luận (như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ...) mà còn phải biết trang bị cho mình kiến thức về đời sống xã hội .

   Bài văn nghị luận xã hội nhất thiết phải có dẫn chứng thực tế. Cần tránh tình trạng hoặc không có dẫn chứng hoặc lạm dụng dẫn chứng mà bỏ qua các bước đi khác của quá trình lập luận.

   Mặt khác với kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh cần làm rõ vấn đề nghị  luận, sau đó mới đi vào đánh giá, bình luận, rút ra bài học cho bản thân. Thực tế cho thấy nhiều học sinh mới chỉ dừng lại ở việc làm rõ vấn đề nghị luận mà coi nhẹ khâu thứ hai, vẫn coi là phần trọng tâm của bài nghị luận. Vì những yêu cầu trên mà việc rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt một bài văn nghị luận xã hội là một việc làm rất cần thiết.

II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN

  1. Đọc tài liệu: Tham Khảo tài liệu chuyên môn có liên quan

+ Sách giáo khoa 9, sách giáo viên, sách bài tập, vở bài tập.

+ Một số vấn đề phương pháp dạy học ở trường phổ thông.

+ Bài tập nâng cao và một số chuyên đề Ngữ văn 9.

  • Chọn lọc kiến thức phù hợp với đơn vị. Học hỏi các giải pháp hay đã áp dụng để tích lũy kinh nghiệm.
  1. Điều tra:

a. Dự giờ:

- Dự giờ học hỏi kinh nghiệm các giáo viên trong tổ.

- Rút kinh nghiệm tiết dạy trên lớp, tiết dự giờ. Qua đó, tôi luôn chú ý đến phương pháp giảng dạy cũng như cách tổ chức tiết dạy của mỗi giáo viên, từ đó giúp tôi tích lũy một số kinh nghiệm và hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học.

  b. Đàm thoại:

  - Trong quá trình giảng dạy giáo viên trao đổi với học sinh  để tìm  ra các nguyên nhân học sinh chưa có phương pháp làm bài văn nghị luận xã hội. Xem học sinh khó khăn ở khâu nào, phần nào học sinh chưa biết cách trình bày để có

biện pháp xử lí kịp thời.

  - Trao đổi với giáo viên ở tổ chuyên môn trong nhà trường cùng bàn biện pháp nâng cao chất lượng, tìm hiểu nguyên nhân học sinh học yếu các lớp khác.

  c. Thăm dò:

  - Nắm lại tình hình chất lượng bộ môn Ngữ văn lớp 9A1 trong năm học 2017 – 2018.

  Tổng số: 37 học sinh .

   Trong đó:

Tổng số

GIỎI

KHÁ

TR. BÌNH

YẾU

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

37

4

10.8

10

27

20

54

3

8.2

 

  Tìm hiểu trong năm học này, giáo viên lập danh sách học sinh yếu; tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu bằng phương pháp vấn đáp, kiểm tra phân loại học sinh yếu. Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục phù hợp đối với từng đối tượng học sinh.    

III. MỤC TIÊU

Tôi tiến hành đề tài này với ba mục đích cơ bản sau:

         Thứ nhất: Giúp học sinh nắm được những phương pháp và kĩ năng cơ bản để làm tốt một bài văn nghị luận xã hội trong các kì thi.

         Thứ hai: Thông qua quá trình rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hội giúp học sinh lớp 9 nâng cao khả năng trình bày suy nghĩ  của mình; cung cấp cho các em vốn tri thức phong phú về các vấn đề xã hội để các em nâng cao nhận thức và kĩ năng sống, sống tốt hơn, đẹp hơn, từng bước hoàn thiện nhân cách của mình.

         Thứ ba: Nhũn kinh nghiệm này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên Ngữ văn khi dạy phần nghị luận xã hội.

 

 

 

CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN

 

I. VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN

1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề:

 Trong quá trình dạy học, trường THCS Văn Lang cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định.

Về phía giáo viên: Các giáo viên bộ môn Ngữ văn đã chú ý đến mảng nghị luận xã hội đặc biệt là ở chương trình lớp 9. Nhưng do thời lượng chương trình hạn chế nên không có nhiều điều kiện bổ sung kiến thức cũng như rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hội cho học sinh. Với thời gian 2 tiết lí thuyết chỉ đủ để giáo viên giới thiệu khái niệm, kiểu bài, dạng đề và cách làm bài một cách đơn giản nhất.

Về phía học sinh: Số học sinh hiểu thấu đáo vấn đề, có kĩ năng làm bài nghị luận xã hội tốt không nhiều. Đa phần các em thường ngợp trước các vấn đề xã hội, hiểu lơ mơ, viết hời hợt, không có những trăn trở sâu sắc, không có cái nhìn toàn diện, đa chiều. Đôi khi viết theo tính chất cảm hứng, không nắm vững qui trình làm bài. Gặp phải đề lắt léo hay vấn đề nghị luận ẩn sau câu chữ, hình ảnh là không làm được.

Về phía nhà trường: Nhà trường đã có kế hoạch phụ đạo phù hợp nhưng chưa thể giảm hết khó khăn cho cả thầy và trò.

2. Tồn tại, hạn chế:

Thực tế qua giảng dạy ở trường THCS tôi nhận thấy bên cạnh một số học sinh học rất tốt môn Ngữ văn, các em vững kiến thức, thành thạo các bước làm bài thì vẫn còn một số em còn chậm, tiếp thu kiến thức còn hạn chế, khi thực hành còn nhầm  lẫn giữa các bước, diễn đạt còn lủng củng.

 Cụ thể kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến của lớp 9a1 năm  học 2017 – 2018 như sau:

Sĩ số học sinh

Số HS chưa biết cách làm

Số HS biết cách làm

35

SL

(%)

SL

(%)

16

45,71%

19

54,29%

 Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

3. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế:

  Qua tìm hiểu nguyên nhân tôi nhận thấy rằng do học sinh có một đặc tính tâm lý là nhanh nhớ nhưng chóng quên. Có khi ngay tại lớp các em nhớ cách làm bài nhưng sau vài ngày kiểm tra lại các em đã quên gần hết (nếu các em không được ôn luyện thường xuyên).

Qua một số bài kiểm tra định kì, mỗi bài một câu nghị luận xã hội chiếm khoảng 30% bài viết chỉ đủ để các em tiếp cận và làm quen với cách làm bài chứ chưa thể đạt đến độ thuần thục, nhuần nhuyễn được.

         Do học sinh chưa nắm vững các phương pháp, chưa vận dụng kỹ năng viết bài một cách thành thạo, linh hoạt, sáng tạo vào từng bài tập cụ thể.

4. Tính cấp thiết của sáng kiến:

  Đứng trước thực trạng trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy Ngữ văn, tôi nhận thấy bên cạnh việc trang bị vốn kiến thức cần thiết cho công tác giảng dạy của mình thì cũng cần phải thường xuyên nghiên cứu tìm ra phương pháp dạy học thích hợp để chất lượng giảng dạy ngày càng được nâng cao nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém, nâng cao số lượng học sinh khá giỏi.

Vì vậy, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 ’’ với đối tượng học sinh lớp 9 của trường Trung học cơ sỏ Văn Lang năm học 2017– 2018.

II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN

1. Làm công tác tư tưởng cho học sinh (định hướng):

Trước hết giáo viên cần phải dập tắt trong các em quan niệm: Văn nghị luận là loại văn “khô khan” là chưa hợp lí, vì ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp dẫn là ở chất lượng. Tiểu thuyết mà viết dở thì cũng khô khan mà thôi. Chất lượng một bài văn nghị luận phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: cách lập luận, dùng từ, câu....Cảm hứng là yếu tố đầu tiên.

Sau là phải có kiến thức: Có thể việc hiểu biết về vấn đề cần bàn càng phong phú thì càng dễ cho mình “tung hoành” trong bài viết. Kiến thức phong phú cũng có nghĩa là mình nắm được lẽ phải, giúp cho mình đưa ra những luận điểm chắc chắn, giàu sức thuyết phục, không thể bác bỏ như cố nhân đã tổng kết: “Nói phải củ cải cũng nghe”. Trái lại nếu kiến thức nghèo nàn hay sáo rỗng thì bài văn nhạt nhẽo, nặng nề, hô khẩu hiệu. Cần nhớ rằng văn nghị luận là làm sao để người khác “Tâm phục khẩu phục” chứ không phải áp đặt cách hiểu của mình cho người khác.

Khi kiến thức đã phong phú thì các yếu tố kĩ thuật của văn bản, về cơ bản sẽ biết sử dụng một cách tự nhiên. Bởi vì một triết gia đã nói “Cái gì được quan niệm rõ ràng thì diễn đạt sẽ mạch lạc”. Việc trau dồi và cẩn trọng trong công tác kĩ thuật thì không bao giờ thừa. Luôn luôn phải cân nhắc, sắp xếp cái nào trước, cái nào sau, chọn đi chọn lại từ nào cho chuẩn xác, sinh động.

2. Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết về bài văn nghị luận xã hội.

Về kiểu bài nghị luận xã hội, Bộ giáo dục và Đào tạo đã quy định trong cấu trúc đề thi năm 2010. Theo đó, học sinh phải vận dụng kiến thức xã hội và đời sống viết bài nghị luận xã hội (khoảng 300 từ) đối với học sinh THCS, (khoảng 600 từ) đối với học sinh THPT. Vì vậy muốn làm tốt kiểu bài này trước hết giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm chắc phần lí thuyết thì mới vận dụng tốt trong khi làm bài. Kiểu bài này có hai dạng bài cụ thể là:

- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.

- Nghị luận về một vấn đề  tư tưởng đạo lí.

         Học sinh cần bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả.

a) Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.

* Khái niệm:

 Nghị luận về một sự việc, hiện tượng, đời sống xã hội là nêu ý kiến của mình, bàn luận, đánh giá của mình về sự việc, hiện tượng ấy.

 * Yêu cầu:

- Nội dung: Phải trình bày rõ nội dung, bản chất của sự việc,hiện tượng, phải trình bày rõ thái độ, ý kiến của người viết về mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó.

- Hình thức: Sự bàn luận, đánh giá phải có luận điểm rõ ràng, được trình bày bằng các luận cứ xác thực, bằng các phép lập luận phù hợp.

- Lời văn có sức thuyết phục.

* Bố cục: Bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cũng phải đảm bảo các phần chặt chẽ, mạch lạc theo những yêu cầu chung của một bài văn nghị luận.

  - Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề sẽ bàn luận.

  - Thân bài: Phân tích các mặt của sự việc, hiện tượng, trình bày ý kiến, sự đánh giá của mình.

  - Kết bài: Khẳng định, phủ định, khái quát ý nghĩa của vấn đề nghị luận.

b) Nghị luận về một vấn đề về tư tưởng đạo lí:

* Khái niệm:

Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống... có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người.

* Yêu cầu:

- Về nội dung: Làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích...để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó nhằm khẳng định tư tưởng của người viết.

- Về hình thức: Bài văn phải có bố cục 3 phần rõ ràng, luận điểm đúng đắn, lập luận chặt chẽ, mạch lạc.

- Lời văn: Rõ ràng, sinh động.

* Bố cục: Có bố cục chặt chẽ, hợp lí theo yêu cầu chung của một bài văn nghị luận.

- Mở bài: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.

- Thân bài: Lần lượt giải thích, chứng minh, phân tích các nội dung của vấn đề tư tưởng, đạo lí đó; đồng thời nêu ý kiến bàn luận, đánh giá của mình.

- Kết bài: Tổng kết, nêu ý nghĩa, bài học của vấn đề nghị luận.

 * Lưu ý: Khắc sâu để học sinh nắm được kiến thức của từng kiểu bài là hết sức quan trọng để các em vận dụng tốt trong quá trình làm bài cụ thể. Tuy nhiên làm bài nghị luận xã hội giáo viên hướng dẫn cho học sinh các lưu ý sau:

- Chú ý đọc kĩ đề bài, xác định dạng đề bài:

 Trong thực tế một số đông học sinh hiện nay vẫn còn nhầm lẫn giữa dạng

đề bài nghị luận về tư tưởng đạo lý và dạng đề bài nghị luận về hiện tượng đời sống. Cách nhận diện đơn giản là ở đề bài bàn về sự việc  hiện tượng đời sống xã hội thường xuất hiện ở sự việc, sự kiện mang tính thời sự cao và yêu cầu học sinh bàn luận trực tiếp về chính những sự việc, sự kiện đã được đề cập. Trong khi đó đề bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý thường yêu cầu học sinh bàn luận về ý kiến, cách đánh giá nào đó (cũng có thể với ngay sự việc, sự kiện mang tính thời sự cao).

Nhiều học sinh băn khoăn, lúng túng khi xử lý đề bài bàn cùng một lúc về hai hiện tượng đời sống. Học sinh cần xác định, nếu là hai hiện tượng trái chiều, đối lập nên tách riêng từng hiện tượng, để bàn luận về nguyên nhân, tác dụng, hậu quả của từng hiện tượng, từ đó rút ra bài học nhận thức, hành động. Ở  hai hiện tượng xã hội có tính chất tương đồng, lại cần nhập lại để cùng bàn luận về nguyên nhân, tác dụng, hậu quả.

* Tăng cường quan sát, cập nhật thông tin: Một điều không thể phủ nhận là những bài nghị luận xã hội đạt điểm cao bao giờ cũng có dẫn chứng thực tế, sát đúng với đề. Học sinh cần sắp xếp và bố trí thời gian phù hợp để đọc sách báo, xem truyền hình để làm phong phú vốn sống, tránh tình trạng bị lạc hậu so với cuộc sống đang diễn ra xung quanh.

 * Chọn lọc và xử lí thông tin: Việc đọc sách báo, tin tức rất cần thiết nhưng phải biết chọn lọc thông tin, học sinh có thể bị “nhiễu”, một số học sinh chưa biết xử lí thông tin có thể gây hoang mang, thậm chí dẫn đến hiểu sai lệch.

  3. Hướng dẫn cách làm bài cụ thể:

a) Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống:

Cuộc sống  đang từng giờ, từng phút trôi qua cùng biết bao thay đổi và biết bao sự kiện. Có thể nói chính những sự việc, hiện tượng đời sống là mảng đề tài hết sức hấp dẫn, phong phú người ra đề lựa chọn các mảng đề tài khác nhau để  ra đề như: Môi trường, dân số, trẻ em, tệ nạn xã hội ... Để làm tốt dạng đề nghị luận xã hội về sự việc hiện tượng đời sống đang được dư luận xã hội

quan tâm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý.

* Làm bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống:

- Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lời văn có sức thuyết phục.

- Yêu cầu về nôi dung:

   + Nêu thực trạng của vấn đề.

   + Biểu hiện – phân tích tác hại.

   + Nguyên nhân.

   + Biện pháp khắc phục (hướng giải quyết)

   + Ý thức bản thân đối với vấn đề nghị luận.

Ví dụ: Với nhan đề: “Môi trường sống của chúng ta”. Dựa vào những hiểu biết của em về môi trường, viết một bài văn ngắn trình bày quan niệm của em và cách làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.

Nêu vấn đề và triển khai thành bài văn nghị luận gồm các ý cơ bản sau:

a. Mở bài: (Nêu vấn đề nghị luận)

 Môi trường sống của chúng ta thực tế đang bị ô nhiễm và con người chưa có ý thức bảo vệ.

b. Thân bài:

- Biểu hiện. + Xã hội.

                   + Nhà trường.

- Phân tích tác hại:

+ Ô nhiễm môi trường làm hại đến sự sống.

+ Ô nhiễm môi trường làm cảnh quan bị ảnh hưởng.

- Đánh giá:

+ Những việc làm đó là thiếu ý thức bảo vệ môi trường, phá hủy môi

trường sống tốt đẹp.

+ Phê phán và cần có cách xử phạt nghiêm khắc.

- Hướng giải quyết.

- Tuyên truyền để mỗi người tự rèn cho mình ý thức bảo vệ môi trường.

- Coi đó là vấn đề cấp bách của toàn xã hội.

c. Kết bài: Khẳng định lại vai trò của môi trường.

b. Hướng dẫn làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý:

 * Lưu ý : Đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí khá đa dạng.

 - Thể hiện ở nội dung nghị luận: Những vấn đề tư tưởng, đạo lí hết sức phong phú, đa dạng.Vì vậy cần tránh học tủ, đoán “mò” nội dung nghị luận. Điều quan trọng là phải nắm được kĩ năng làm bài.

 - Thể hiện trong dạng thức đề thi:

 Có đề thể hiện rõ yêu cầu nghị luận, có đề chỉ đưa ra yêu cầu nghị luận mà không đưa ra một yêu cầu cụ thể nào.

 Có đề nêu trực tiếp vấn đề nghị luận, có đề gián tiếp đưa ra vấn đề nghị luận qua một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện...

 - Chú ý các bước cơ bản của bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Đây cũng là trình tự thể hiện hệ thống lập luận trong bài viết. Học sinh cần tranh thủ những hướng dẫn quan trọng trong sách giáo khoa để nắm chắc kĩ năng làm bài như ở trên.

1. Mở bài: - Dẫn dắt vấn đề.

                  - Nêu vấn đề.

2. Thân bài:

- Giải thích vấn đề (nghĩa đen, nghĩa bóng; từ ngữ trọng tâm...)

- Khẳng  định vấn đề (đúng, sai)

- Quan niệm: sai trái.

- Mở rộng vấn đề.

3. Kết bài:

   - Giá trị đạo lí đối với đời sống của mỗi con người.

   - Bài học hành động cho mọi người, bản thân.

 Đồng thời  giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đối với hai dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí thường gặp.

 + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp.

 + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách gián tiếp.

 * Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp:

    Những lưu ý về cách làm bài:

   Cách làm bài dạng đề này về cơ bản giống với cách nói trên.

 Ví dụ khi gặp đề bài “Bàn luận về lòng yêu nước”, để đáp ứng được yêu cầu của đề, học sinh trước hết phải giải thích khái niệm “Lòng yêu nước”, nêu và phân tích những biểu hiện của “Lòng yêu nước”; ý nghĩa, vai trò của “Lòng yêu nước”đối với đời sống của mỗi con người, mỗi dân tộc, đồng thời phê phán những biểu hiện đi ngược lại với “Lòng yêu nước”, rút ra bài học về nhận thức và hành động cho bản thân.

 * Ví dụ minh hoạ:

 Đề bài: Viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ về đức hy sinh.

 Đề bài yêu cầu học sinh viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của bản thân về đức hy sinh. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (Về một vấn đề tư tưởng, đạo lý) đã khá quen thuộc với học sinh. Dù vậy, giáo viên cần hướng dẫn các em đáp ứng được các yêu cầu sau:

  * Trình bày bài viết đúng với yêu cầu đề; không quá một trang giấy thi.

  * Có thể diễn đạt theo nhiều cách, song cần đảm bảo bố cục sau:

1. Mở bài: Giới thiệu được đức hy sinh và nêu khái quát đặc điểm vai trò của đức hy sinh.

2. Thân bài:

- Giải thích sơ lược, nêu biểu hiện của đức hy sinh:       Là những suy nghĩ, hành động vì người khác, vì cộng đồng. Người có đức hy sinh không chỉ có tấm lòng nhân ái mà còn là người biết đặt quyền lợi của người khác, của cộng đồng lên quyền lợi của bản thân mình...

- Khẳng định: Đức hy sinh là tình cảm cao đẹp, là phẩm chất đáng quý của con người. Người có đức hy sinh luôn  được mọi người yêu mến, trân trọng.

- Mở rộng - liên hệ thực tế để thấy: Có nhiều tấm gương giàu đức hy sinh, quên mình vì người khác, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. (Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những người có đức hy sinh - Bác Hồ chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người hy sinh quên mình vì nhân dân, vì dân tộc).

   Tuy nhiên trong cuộc sống cũng còn một số người có lối sống ích kỷ, chỉ

nghĩ đến quyền lợi của cá nhân mình...

3. Kết bài:

- Đức hy sinh từ lâu đã trở thành tình cảm có tính truyền thống đạo lý của con người, dân tộc Việt Nam... Mỗi người cần ý thức được điều này để góp phần làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.

* Dạng đề trong đó tư tưởng, đạo lí được nói tới một cách gián tiếp...

Những lưu ý về cách làm bài:

Ở dạng này vấn đề tư tưởng, đạo lí được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện, một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách giáo khoa, trên báo chí, trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta, bài học cuộc đời, hạnh phúc ở quanh ta...”. Chính vì thế giáo viên cần hướng cho học sinh biết đọc tham khảo, kể cho các em nghe những câu chuyện có liên quan, có nội dung thiết thực với các em hàng ngày.

Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện trong những câu danh ngôn, tục ngữ, thành ngữ..., ý nghĩa ẩn dụ, triết lí sâu sắc của những câu chuyện, văn bản ngắn.Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn bạc, cần chú ý:

- Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói (Nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ...)

- Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (Nêu đề bài có dẫn chứng câu chuyện, văn bản ngắn).

Thông thường khi làm bài, học sinh chỉ chú ý đến tính chất đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận mà ít chú ý thao tác bổ sung, bác bỏ... Những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của vấn đề hoặc trái ngược với vấn đề cần quan tâm. Chẳng hạn khi suy nghĩ về tình cảm người mẹ qua câu thơ:

                                    “Dẫu con đi hết cuộc đời

                               Cũng không đi hết những lời mẹ ru” 

                                                                               (Nguyễn Duy)

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

 Ngoài khẳng địng về tình mẫu tử thiêng liêng, ta còn bắt gặp đâu đó những

người mẹ còn bỏ rơi con hoặc đánh đập con. Hay khi trình bày suy nghĩ của bản thân về câu nói: “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể”. Học sinh ngoài khẳng định tính chất đúng đắn của lời khuyên (sống thực tế, biết bằng lòng với hiện tại, với những gì mình có...), cần hiểu được tầm quan trọng của những khát vọng, ước mơ đối với mỗi con người trong cuộc sống.

Một điều nữa cần lưu ý là không được sa vào phân tích câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản...như một bài nghị luận văn học.

  * Ví dụ:

  Ví dụ 1: Nghị luận một vấn đề trực tiếp.

                                      “Ta đi trọn kiếp con người

                                  Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”

                                                              (Nguyễn Duy).

  Từ ý thơ trên, hãy viết một bài nghị luận xã hội (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ.

* Về hình thức: Đảm bảo bài văn bố cục 3 phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.

* Về nội dung:

  - Nêu ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Duy “Lời mẹ ru” biểu tượng cho tình yêu thương vô bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “không đi hết”. Khẳng định tình  mẹ là vô cùng thiêng liêng cao cả và bất tử, là bao la vô tận không sao có thể đền đáp được...Từ đó khẳng định: Tấm lòng của mẹ thật bao la, lớn lao.

  - Biểu hiện, bàn về tấm lòng của mẹ:

+ Ban cho con hình hài, muốn con khôn lớn, khoẻ mạnh về vóc dáng, bằng sự chăm sóc ân cần, chu đáo.

+ Là người dạy con từ những kĩ năng sống đến đạo lí làm người.

+ Là vị quan toà đầy lương tâm, trách nhiệm, chỉ bảo phân tích xác đáng những sai trái, lỗi lầm.

+ Là bến đỗ bình yên đón đợi con sau những dông bão cuộc đời.

+ Là bệ phóng xây dựng niềm tin, khát vọng...để con bay cao, bay xa (lấy

dẫn chứng).

   - Ý nghĩa: Tình yêu và đức hy sinh của mẹ là sức mạnh để giúp con vượt lên khó khăn trong cuộc sống, giúp con sống tốt hơn.

   - Tuy nhiên trong thực tế, có những người mẹ thể hiện tình thương con không đúng cách (nuông chiều, giấu cái xấu, lỗi lầm...), hay có những người mẹ vô trách nhiệm (bỏ rơi, đánh đập con...), những người mẹ ấy đáng bị phê phán.

  - Bài học về nhận thức và hành động: Liên hệ bản thân, cảm nhận sâu sắc tấm lòng người mẹ với con cái, tình cảm của con với cha mẹ.

 Ví dụ 2:

 Đề bài: Viết bài văn ngắn (không quá 300 từ), trình bày ý kiến của em về câu nói sau đây của nhà văn Nga Leptôn – xtôi:

 “Bạn đừng nên chờ đợi những quà tặng bất ngờ của cuộc sống mà hãy tự mình làm nên cuộc sống”.

 Gợi ý: Học sinh cần đáp ứng một số yêu cầu sau:

* Hình thức: Bố cục rõ ràng, diễn đạt chặt chẽ, lô gíc.

* Nội dung:

- Giải thích câu nói:

+ Quà tặng bất ngờ: Có thể hiểu theo cả nghĩa cụ thể - khái quát (vật chất và tinh thần, những cơ hội may mắn, bất ngờ...).

+ Nội dung ý nghĩa của câu nói khuyên con người cần có thái độ sống chủ động, có ý chí và nghị lực vươn lên.

- Bàn luận:

+ Quà tặng bất ngờ mang lại niềm vui, sự hào hứng.. nhưng không phải lúc

nào cũng có.

+ Nhiều người khi nhận được quà tặng bất ngờ; có tâm lí chờ đợi, ỉ lại, thậm chí phung phí những quà tặng ấy.

+ Phê phán một số người thụ động, thiếu ý chí vươn lên, chỉ chờ đợi những “quà tặng bất ngờ” mà cuộc sống mang lại mà không “tự mình làm nên cuộc sống”.

 + Không thể phủ nhận những giá trị ý nghĩa của “quà tặng bất ngờ” mà

cuộc sống đem lại cho con người, vấn đề là biết tận dụng, trân trọng quà tặng ấy như thế nào?

- Bài học nhận thức hành động: Phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có ý chí...để có thể đón nhận những “quà tặng kì diệu” của cuộc sống do chính bản thân mình làm nên.

 4. Hướng dẫn học sinh tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội:

 Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc khá khó khăn đối với học sinh. Để giúp các em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh nghiệm trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội.

Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về một sự việc nào đó.

Sau một thời gian tích lũy cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu.

 Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của con người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái...).

  Sau đây là một số dẫn chứng tiêu biểu có thể dùng làm dẫn chứng cho một bài văn nghị luận xã hội.

  * Dùng nhân vật trong thực tế đời sống để làm dẫn chứng.

 1. Bác Hồ: Một lãnh tụ vĩ đại, một nhà cách mạng lỗi lạc đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Để có được điều đó Người phải tự học, ý chí vươn lên trong cuộc sống, quan trọng hơn Bác còn là con người biết hy sinh mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. -> Khó khăn không làm cho ý chí lung lay mà ngược lại còn giúp cho con người có nghị lực hơn.

 2. Niu-tơn: Là nhà toán học, vật lí, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh

Sinh ra thiếu tháng, là một đứa trẻ yếu ớt, Niu-tơn thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ông phải tự tạo ra những trò chơi cho mình và trở thành người rất tài năng. -> Những thiếu thốn của bản thân không thắng nổi sức mạnh của nghị lực.

 3. Bill Gates: Từ nhỏ đã say mê toán học, từng đậu vào trường Đại học Harvrard nhưng niềm say mê máy tính ông đã nghỉ học và cùng một người bạn mở công ty Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn, ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh và hiện nay ông đã dành 95% tài sản của mình làm từ thiện. Cuộc đời của ông là bài học cho sự thành công nhờ sự tự học và niềm đam mê đối với công việc...

 4. Chu Văn An: (1292 – 1370) là nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối đời Trần. Nổi tiếng cương trực, không cầu danh lợi. Ra làm quan từ thời vua Trần Dụ Tông (Đầu thế kỷ XIV), chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, ông dâng sớ xin chém 7 nịnh thần (thất trảm sở) nhưng không được chấp thuận. Ông treo án từ quan về quê dạy học, viết sách. Ông không vì trò làm quan to mà dựa dẫm, luôn thẳng thắn phê bình những trò thiếu lễ độ. Đây là tấm gương về lối sống trung thực, bất chấp khó khăn vẫn đấu tranh cho lẽ phải.

 5. Phan Thị Huệ: Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV /AIDS dám công khai thân phận - Phạm Thị Huệ, quê ở Hải Phòng đã được tạp chí Time của Mĩ bầu chọn là “Anh hùng châu Á”. Biết mình và chồng bị nhiễm nhưng cô đã chiến thắng bản thân, đóng góp sức lực cho cuộc đời. Tháng 2/2005 cô trở thành tình nguyện viên của Liên Hợp Quốc.

 -> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.

 6. Anh Trần Văn Thước: bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đau khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế.

 7. Nguyễn Công Hùng: Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên- huyện Nghi Lộc- Nghệ An) Từ khi sinh đã bị mắc

chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo.

 8. Thầy Nguyễn Ngọc Ký: bị liệt cả hai bàn tay đã kiên trì luyện tập biết đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu, viết những dòng chữ thật đẹp trở thành nhà giáo, nhà thơ.-> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.

  Đấy là những con người có nghị lực phi thường trong cuộc sống, những con người biết vượt lên số phận.

  * Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng.

 1. Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người. Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ, hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS.

   HIV/AIDS là một thảm hoạ, toàn nhân loại cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỷ này.

 2. Những con số biết nói về môi trường:

  14 chiếc túi ni lon được làm ra tổn phí nhiên liệu bằng lượng xăng dầu cho một chiếc ô tô chạy 1 km.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

 3. 10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải hàng năm, trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu USD  (gần 140 tỉ đồng)

Sau khi hướng dẫn học sinh sưu tầm các dẫn chứng, tôi nhận thấy các em làm bài tốt hơn. Bài viết lập luận chặt chẽ, xác thực với những dẫn chứng cụ thể trong cuộc sống đời thường. Những tấm gương giúp các em hoàn thiện mình hơn, những số liệu làm các em phải suy nghĩ và biết đưa ra hành động tích cực, để tạo nên sức hút cho bài làm.

  5. Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận xã hội theo hướng mở:

Trong những năm gần đây, đề thi môn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi về cấu trúc cũng như nội dung. Xu hướng chung của các kì thi là ra đề theo hướng mở. Việc ra đề theo hướng mở đã góp phần phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc học môn Ngữ văn. Nội dung của đề mở không chỉ là những vấn đề xã hội gần gũi, đời thường.

Hiện nay cách ra đề nghị luận xã hội của các thầy cô giáo trong các kì kiểm tra hoặc thi cử sáng tạo, phong phú. Điểm qua đề thi ngữ văn vào lớp 10, thi học sinh giỏi của một số tỉnh, thành ta có thể nhận thấy cách ra đề nghị luận xã hội thường dựa vào những cơ sở sau:

    Cách thứ nhất: Lấy hiện tượng xã hội nổi bật được cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cở sở cho nội dung đề bài.

    Ví dụ: Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp qua đời lúc 18 giờ ngày 4/10/2013 khi ông vừa tròn 103 tuổi. Ngay sau sự ra đi của Đại tướng, trên mạng giới trẻ đồng loạt thay avatar (ảnh đại diện) chia sẻ sự mất mát lớn lao này. Theo 2 sao-trang thông tin tổng hợp của Vietnamnet.

    “Ngay trong đêm 4 tháng 10, rạng sáng ngày 5/10, một nhóm các bạn học sinh Hà Nội đã tập trung  tại khu vực đường Điện Biên Phủ để thắp nến tiếc thương người anh hùng dân tộc”. Ngày 07/10/2013 báo Gia dinh.net đưa tin: “Trên mạng xã hội cư dân mạng truyền tay nhau hình ảnh một thanh niên người Pháp tên Neang đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh mặc áo dài trắng, đầu chít khăn tang trắng theo đúng phong tục truyền thống của người Việt Nam, tay cầm tấm chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tỏ lòng thành kính”. Báo chí nước ngoài nhận định: “Đám tang Đại tướng là hiện tượng hiếm có!”. Hãy bàn luận về những sự việc nói trên.

     Cách thứ 2: Dựa vào các tác phẩm văn học, người ra đề nêu lên vấn đề xã hội và yêu cầu học sinh bàn luận.

Ví dụ 1: Một câu trong đề thi vào lớp 10 như sau :

    Có một người cha trước khi chết gọi ba con trai đến bên giường, đưa cho

họ bó đũa và bảo : “Các con thử bẻ bó đũa này xem ai có thể bẻ gãy được. Cả ba người đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó đũa đã không gãy chiếc nào. Người cha cầm lấy bó đũa tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc một. Trong phút chốc bó đũa đã bị gãy... ”.                    

                                                (Truyện ngụ ngôn: Người cha và bó đũa)

Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn về tính đoàn kết trong gia đình và cộng đồng.

Ví dụ 2:

Trong bài thơ “Quê hương” nhà thơ Đỗ Trung Quân Viết:

                                        “Quê hương mỗi người chỉ một

                                          Như là chỉ một mẹ thôi”.

Dựa vào ý thơ trên hãy viết một văn bản nghị luận về chủ đề quê hương.

Đề bài yêu cầu học sinh viết một bài văn nghị luận (không quá một trang giấy thi) về chủ đề quê hương. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (về một vấn đề tư tưởng, đạo lí) với hình thức “khá mở”, tạo điều kiện cho học sinh có thể trình bày ý kiến, cảm nhận của mình xoay quanh chủ đề quê hương như (Vai trò của quê hương đối với đời sống con người, tình yêu sự gắn bó với quê hương...)

 Qua đề văn đã dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy: việc có thêm nội dung nghị luận xã hội theo hướng mở sẽ khiến đề phong phú về nội dung và đa dạng về cách kiểm tra. Không chỉ vậy đề nghị luận xã hội còn giúp học sinh tự giác học tập biết quan tâm đến các vấn đề xã hội. Từ đó giúp các em thêm hiểu biết và chủ động trong cuộc sống. Khi làm bài các em còn có cơ hội thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của bản thân trước tình huống mà cuộc sống đặt ra. Nhờ đó kĩ năng sống được rèn luyện.

* Gợi ý:

- Bước 1: Đọc kĩ đề, phát hiện vấn đề cần giải quyết qua bản tin, câu chuyện, câu nói mà đề đã dẫn.

- Bước 2: Tìm những luận cứ để giải thích, chứng minh các vấn đề đã được xác định.

   Việc này thường xoay quanh các câu hỏi người làm bài tự đặt ra dựa vào

vấn đề cần giải quyết.

 + Hiện tượng (vấn đề) ấy xảy ra ở đâu, như thế nào? Tại sao có hiện tượng (vấn đề) ấy.

 + Ảnh hưởng, tác động của hiện tượng (vấn đề) ấy đến cuộc sống của những người xung quanh với xã hội như thế nào?

 +  Những suy nghĩ về hướng giải quyết hiện tượng (vấn đề) đó.

  Làm thế nào để phát huy (nếu là vấn đề tốt) hoặc hạn chế (nếu là vấn đề chưa tích cực).

 + Vấn đề đó đã tác động đến bản thân mình như thế nào? Bản thân hiểu ra điều gì từ vấn đề được nêu, có ước muốn, quyết định gì...

- Bước 3: Dựa vào các ý đã tìm được ở bước 2 để lập dàn ý.

 + Nếu viết bài văn dù độ dài chỉ một trang giấy thi, nhưng bố cục cũng phải đầy đủ 3 phần : Mở bài, thân bài, kết bài.

- Bước 4: Hoàn chỉnh văn bản theo dàn ý đã lập bằng những câu văn có cảm xúc và lập luận chặt chẽ.

* Lưu ý:

- Kĩ năng viết + vốn sống phong phú + cảm xúc chân thành, đúng đắn = sức thuyết phục của bài văn viết.

- Giáo viên cần hướng dẫn cho các em học và tham khảo theo chủ đề trong cuộc sống: Chủ đề tình cảm gia đình (tình mẹ, tình cha, tình anh em...); tình bạn; chủ đề môi trường; vấn đề dân số; tệ nạn xã hội...

 6. Giáo viên cần có những bài văn mẫu để đọc học sinh tham khảo:

 Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên đọc một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức, cách viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu được chọn phải thực sự xúc động để lay động được tâm hồn đồng thời khơi gợi được chất văn trong các em.

  Ví dụ: Viết một bài văn ngắn bàn về vấn đề: Những con người không chịu thua số phận.

Bài mẫu: “Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu” M.Gorki đã từng nói

 như thế và điều đó thực sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những con người không chịu thua số phận như thầy Nguyễn Ngọc Ký, anh Trần Văn Thước, Nguyễn Công Hùng...

     Trước hết ta phải hiểu thế nào là “không chịu thua số phận”. Đó là những người không chấp nhận mình mãi là tàn phế, vô dụng, không học tập, không đóng góp gì cho xã hội.

     Không mấy người Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Ký đã liệt cả hai tay đã kiên trì luện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ. Anh Trần Văn Thước : bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đâu khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế.

    Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên-huyện Nghi Lộc-Nghệ An). Từ khi sinh ra đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia Tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của bản thân mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo.

    Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt qua bệnh tật và khẳng định được bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống tinh thần mạnh mẽ của họ. Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác. Đó chính là sự động viên, khích lệ, giúp đỡ của bạn bè, của người thân, là khát khao không muốn người thân của mình đau khổ, thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường

và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam.

    Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghị lực, khát vọng và ý chí của mình khiến em vô cùng khâm phục. Chính những tấm gương về họ đã xây đắp những ước mơ, hoài bão, trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình. Những người không chịu thua số phận những con người tàn mà không phế thực sự là những tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em, khích lệ bản thân mỗi người cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những người con có ích cho xã hội.

    Sau khi nghe xong những bài văn mẫu tôi nhận thấy ở các em phần lớn đều có sự trầm tư suy nghĩ. Nhiều em không thể kìm chế thốt lên lời thán phục “hay, cảm động thật”. Điều đó chứng tỏ đã có sự tác động, khích lệ các em rất nhiều trong quá trình học và làm bài.

III. KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG 

Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 2017 – 2018 để hướng dẫn cho học sinh làm bài nghị luận xã hội. Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài văn nghị luận xã hội của học sinh mà lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây các em đã làm bài đúng hướng, bám sát vào thực tế đời sống cũng biết rút ra những bài học cho bản thân mình. Các em đã hiểu bản chất của kiểu văn này, không thấy khó và viết văn không bị khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc sống đời thường để đưa vào bài; nhiều bài đã có sức hút và lay động được người đọc. Đặc biệt các em đã biết phân biệt hai kiểu bài nghị luận xã hội: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

Cũng nhờ áp dụng những kinh nghiệm này mà cuối năm học 2017 – 2018 chất lượng của các bài thi về dạng bài này được nâng lên rõ rệt.  Cụ thể là :

 

Sĩ số

Số HS không biết cách làm bài

(1->4điểm)

Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình-khá (5->7điểm)

Số HS làm bài tốt 

(8-9 điểm)

SL

%

SL

%

SL

%

35

4

11,4

26

74,3

5

14,3

 

Trong năm học 2018 – 2019 những kinh nghiệm đang được áp dụng vào giảng dạy ngữ văn lớp 9. Đem lại hiệu quả tích cực so với năm học trước. Qua hơn hai tháng của học kỳ I, năm học 2018 – 2019 chất lượng các bài kiểm tra 15 phút,b ài viết viết bài Tập làm văn  của học sinh đạt được rất khả quan.

Cụ thể:

Bài kiểm tra 15 phút

Lớp

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

9a1

 

 

 

 

 

 

 

 

9a2

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài viết Tập làm văn số 1

Lớp

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

9a1

 

 

 

 

 

 

 

 

9a2

 

 

 

 

 

 

 

 

         

Từ kết qur trên cho thấy…

IV. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN

Trong quá trình tiến hành thực nghiệm tôi đã đúc rút được một số giải pháp cơ bản sau:

Không cần phải chờ đến năm học lớp 9 mới rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh. Trên cơ sở kiến thức về văn nghị luận xã hội các em đã có ở lớp 7, giáo viên cần tăng cường rèn luyện phương pháp, kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh từ lớp 7 thông qua các đề kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên (mức độ kiểm tra, đánh giá tùy thuộc vào loại bài kiểm tra).

Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn vốn đã không dễ, để các em có hứng thú trong làm bài nghị luận xã hội càng khó khăn hơn. Một trong những yếu tố gợi hứng thú cho các em khi làm bài nghị luận xã hội là việc ra đề của giáo viên. Việc đổi mới cách thức ra đề thi là vô cùng cần thiết. Xu hướng chung của đổi mới đề thi môn văn là kiểu ra đề “mở”. Đề bài nghị luận xã hội rất phù hợp với kiểu ra đề mở. Đó là mở về phạm vi đề tài, mở về thao tác nghị luận, mở về nội dung kiến thức, mở cho những suy nghĩ độc lập và những kiến giải sáng tạo...để từ đó "mở" ra một không gian rộng lớn, kích thích suy nghĩ, sáng tạo và hứng thú làm bài của các em.

 Một trong những kinh nghiệm khi ra đề nghị luận xã hội cho học sinh là không ra đề quá khó theo kiểu đánh đố, học sinh không làm được sẽ gây tâm lí chán nản. Tuy nhiên cũng không ra đề quá dễ, kiểu đề chung chung, học sinh không phải suy nghĩ nhiều chỉ “chém gió” cũng có thể kiếm được điểm khá. Ra đề làm sao phải “có vấn đề” buộc học sinh phải có suy nghĩ, tìm tòi, trăn trở mới hiểu thấu đáo vấn đề. Như thế mới rèn luyện được khả năng tư duy và lập luận của các em.

 Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững và vận dụng linh hoạt qui trình các bước tiến hành một bài nghị luận xã hội. Cho các em thực hành nhiều với các kiểu đề phong phú, đa dạng. Một điều vô cùng cần thiết là giáo viên phải thực sự nhiệt tình trong việc chấm, chữa bài, sửa và uốn nắn cho các em thật tỉ mỉ về kĩ năng trình bày lập luận, huy động kiến thức, bày tỏ quan điểm thái độ riêng, nhận thức…

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

 

I. KẾT LUẬN:

Để rèn luyện học sinh làm bài nghị luận xã hội tốt, tôi đã mạnh dạn đề xuất một số biện pháp cụ thể như trên, với mong muốn giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để  thành công trong cuộc sống và biết cách bảo vệ môi trường sống xung quanh...Phù hợp chung với xu thế xã hội và cũng là mục tiêu mà Đảng đã đề cập ở Nghị Quyết TW8  khoá XI: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện ... đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học...”. Trong đó phải thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa học để làm cho văn học không xa rời thực tiễn cuộc sống. Theo xu hướng đổi mới chung của giáo dục để áp dụng vào từng môn học cụ thể, bản thân tôi nhận thấy kiểu bài nghị luận xã hội trong môn Ngữ văn là một vấn đề đáng được quan tâm. Vì nghị luận xã hội là một dạng văn còn mới và khó với học sinh Trung học cơ sở. Mặc dù tiết dạy cũng như số điểm trong bài thi không nhiều nhưng cũng là phần quan trọng, giúp học sinh có những hiểu biết về đời sống để vận dụng thi vào Trung học phổ thông rồi sau này thi tốt nghiệp, thi vào Đại học đều có kiểu nghị luận này. Theo tôi đó là cách tốt nhất để đánh giá lực học của học sinh. Buộc các em phải có cái nhìn khác về văn, về cuộc sống. Ngoài kiến thức về văn học, cách làm bài nghị luận văn học còn phải biết quan tâm, đến đời sống xung quanh, biết nhìn nhận sự việc, hiện tượng đời sống đến những đạo lí làm người.

II. ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ

1. Đối với Phòng giáo dục và đào tạo:

- Quan tâm cung cấp các phương tiện, đồ dùng dạy học, tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn,...); tổ chức lớp tập huấn ... để việc dạy - học theo những biện pháp này được hiệu quả hơnnâng cao hiệu quả giờ dạy phát huy được tính tích cựcsáng tạo của HS, đồng thời rèn được nhiều kỹ năng khác.

2. Đối với nhà trường:

Nhà trường cần luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên bộ môn được học tập, trau dồi kiến thức và phương pháp giảng dạy bộ môn.

Đầu tư thêm các tài liệu tham khảo phục vụ bộ môn ngữ văn…

3. Đối với giáo viên Ngữ văn:

Giáo viên cần đầu tư nhiều hơn trong công tác chuẩn bị, thiết kế giáo án cho phù hợp với  tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm”. Đầu tư nghiên cứu kiến thức liên môn có liên quan để cùng hợp tác với học sinh  giúp các em chiếm lĩnh  nội dung bài học. Làm tốt công tác đầu tư cho tiết dạy sẽ giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong khâu tổ chức, hướng  dẫn học sinh tự khai thác và chiếm lĩnh tri thức; mặt khác sẽ tránh được sự lúng túng bị động khi học sinh chất vấn về những thông tin liên quan.

  Áp dụng có hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp thì  khi lên lớp giáo viên sẽ đỡ vất vả vì không phải làm việc nhiều. Mặt khác, hạn chế tối đa thời gian “chết” đối với học sinh, không để cho các em có cơ hội tham gia vào các  hoạt động vô bổ ngoài giờ học.

  1. Đối với học sinh:

Học sinh cần dành thời gian đọc, tiếp cận văn bản nhiều hơn, phải tìm tòi, suy nghĩ để chuẩn bị bài có hiệu quả.

Rèn luyện tính năng động, sáng tạo và hứng thú với giờ học văn.

 Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy của mình. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu chưa lâu nên sáng kiến kinh nghiệm này chủ yếu được áp dụng tại trường Trung học cơ sở Văn Lang. Những vấn đề đã trình bày ở trên không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự đóng góp của Hội đồng khoa học các cấp, của đồng nghiệp để Sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Nguyễn Viết Chữ, “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương

(theo loại thể)” NXB Đại học sư phạm Hà Nội 2004.

  1. Lê Nguyên Cẩn, “Phân tích- bình giảng tác phẩm văn học nước

(THCS)”  NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2001.

  1. Trần Văn Dân (chủ biên), “Tiếp nhận văn học”, NXB Khoa học kĩ

thuật Hà Nội 1991.

  1. Nguyễn Thanh Hưng, “Hiểu Văn, dạy Văn”, NXB GD TP Hồ Chí

Minh.

  1. Trần Đình Sử, Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam, “Lí luận văn học tập 2” NXB Giáo dục, Hà Nội 1986.
  2. Trần Đình Sử, “Mấy vấn đề lí luận tiếp nhận văn học”, NXB Giáo dục, Hà Nội 1997.
  3. Phan Trọng Luận, “Phương pháp dạy học văn”, Tập I, NXB Giáo dục

Hà Nội 1993.

  1. Phan Trọng Luận, “Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà

trường phổ thông”, Tập I, II, NXB Giáo dục Hà Nội 2000.

  1. Nhiều tác giả, “Sách giáo khoa ngữ văn 9”, tập 1,2- NXB GD 2014
  2. Tài liệu tham khảo soạn kĩ năng làm văn, Vụ GD - TH

Nguồn: ST
Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC