Skkn một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng có thói quen tốt trong ăn uống



 DVTUAN.COM tổng hợp và chia sẻ miễn phí đến thầy cô Skkn một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng có thói quen tốt trong ăn uống 

I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

Trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ em.

    Bác Hồ kính yêu đã nói:

Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan

 Đúng như vậy trẻ em như một cây non. Cây non được sự chăm sóc tận tình của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt. Chính vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc - giáo dục trẻ, đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung.

Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì gia đình là sợi dây tình yêu, chăm sóc và kích thích đầu tiên của trẻ, cha mẹ là những người thầy đầu tiên và quan trọng nhất. Mỗi nhà giáo dục, mỗi một cô giáo, người mẹ thứ hai của trẻ, thì phải làm sao hình thành cho các cháu bước đầu có một đức tính tốt để sau này trẻ trở thành người công dân tốt.

 Là một giáo viên mầm non được phân công phụ trách trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng, ở tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh, vì vậy trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý, tôi thấy việc giáo dục đưa các cháu vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình của các cháu. Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay từ những ngày đầu, những ngày mà trẻ không muốn rời xa mẹ để đến với cô giáo và các bạn.

Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân.

Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều so với những gì chúng thể hiện ở lớp. Và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học  theo nhiều cách khác nhau.

 Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ trong quá trình sinh trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay sau khi trẻ sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô giáo.

Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình.

 Trẻ 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, các mặt phát triển hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn non nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về cảm giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được yêu mến, cảm giác được an toàn và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập.

Bên cạnh đó, quan hệ của cô giáo đối với trẻ phải giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ - con, là người thay mẹ dạy trẻ. Vậy hoạt động lao động Sư phạm của cô giáo Mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt có sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động lao động Sư phạm của cô giáo Mầm non có định hướng, có mục đích để tác động giáo dục vào sự phát triển của trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế, nghệ thuật của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để trở thành người bạn thực sự của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô giáo một cách tự nguyện, thoải mái và vui vẻ. Từ đó, giúp trẻ có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn.

Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo dục thành phố Hà Nội đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục tại các trường Mầm non.

Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề "Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm" đã thu được kết quả rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong ăn uống là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ ở trường.

Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt trong ăn uống, trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ phát triển, củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật…. do đó góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách mới cho trẻ.

 Nếu trẻ có một thói quen ăn uống xấu không những ảnh hưởng đến ham muốn ăn uống mà còn ảnh hưởng đến sự hấp thụ dinh dưỡng cho nên khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất thiết phải chú ý, bồi dưỡng thói quen ăn  uống tốt cho trẻ từ nhỏ. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số biện pháp  giúp trẻ từ 24 -36 tháng có thói quen tốt trong ăn uống”.

2. Mục đích của sáng kiến:

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng tại lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tôi tìm ra một số biện pháp và đ­ưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng việc giáo dục rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ.

-         Đối với trẻ:

 Hình thành cho trẻ có nề nếp, thói quen tốt trong ăn uống. trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ có ý thức, thói quen tự phục vụ: Tự xúc cơm ăn, tự đi vệ sinh khi có nhu cầu của trẻ.

-         Đối với giáo viên.

Nâng cao kiến thức về việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong ăn uống.

3. Đối tượng và phạm vi áp dụng sáng kiến

-         Trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng.

4. Phương pháp nghiên cứu

a.     Phương pháp nghiên cứu lý luận

     + Nghiên cứu các loại sách, tài liệu hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng lễ giáo cho giáo viên mầm non của vụ giáo dục mầm non.

     + Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng.

     + Các chuyên đề giáo dục mầm non

     b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

     + Phương pháp trò chuyện

     + Phương pháp quan sát sư phạm

     + Phương pháp đàm thoại.

      c. Phương pháp dạy học thực tiễn

      + Lồng ghép vào các hoạt động thường ngày mọi lúc mọi nơi.

5. Kế hoạch nghiên cứu:

Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 04 năm 2017

 

II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Cơ sở lý luận

         Trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế, Việt Nam nước ta đang từng bước khắc phục những hậu quả của chiến tranh, những tồn tại,hạn chế của nền kinh tế cũ, nhằm vươn lên một tầm cao mới, tầm cao của tri thức và khoa học. Do đó, giáo dục là quốc sách hàng đầu, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của các bậc học.Nuôi dưỡng và dạy dỗ những ngày mầm non của ngày đầu chập chững thật tốt giữ vai trò quan trọng để bước tiếp con đường học tập sau này.

         Vì vậy giáo dục mầm non hiện nay đã và đang tiếp tục tìm ra những phương pháp mới để chăm sóc và giáo dục trẻ thật tốt. Thực tế cho thấy , trẻ em ngày nay gặp rất nhiều kho khăn trong ăn uống . Nhiều bậc phụ huynh mải mê với việc phát triển kinh tế gia đình mà không có thời gian quan tâm chăm sóc bữa ăn cho con họ. Hơn thế nữa, trong xu thế kinh tế thị trường, nhiều loại thức ăn nhanh không đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ lại rất được các bậc phụ huynh  ưa chuộng. Họ cho con cái ăn uống không có giờ giấc cố định , trẻ ăn vặt nhiều như bim bim, bánh kẹo…nên khi vào bữa ăn trẻ ăn ít, không có hứng thú với việc ăn thậm chí là bỏ bữa. Có nhũng bậc phụ huynh không có kiến thức về dinh dưỡng, cứ nghĩ là trẻ ăn được càng nhiều thì càng tốt. Từ những quan điểm đó mà ngày nay, tỉ lệ em suy dinh dưỡng và trẻ béo phì ngày càng tăng cao.

         Từ thực tế đó mà không chỉ các giáo viên, các bậc phụ huynh cũng cần nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức ăn uống hợp  lý, khoa học, đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ. Ở trường mầm non, trẻ được ăn uống, ngủ nghỉ, học hành theo đúng giờ giấc. Giáo viên tổ chức các hoạt động cho trẻ hợp lý, khoa học phù hợp với lứa tuổi đảm bảo cho trẻ phát triển toàn diện trong các lĩnh vực ngôn ngữ, thẩm mỹ, nhận thức, tình cảm xã hội đặc biệt là mặt thể chất của trẻ cũng được tăng lên đáng kể.

         Trẻ chỉ có thể phát triển, khỏe mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo dục thành phố Hà Nội đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục tại các trường Mầm non.Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề “ Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm” đã thu được kết quả rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong ăn uống, trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ phát triển , củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật…dó đó góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách mới cho trẻ.

Giai đoạn trẻ 24 -36 tháng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt. trẻ rất dễ bị tổn th­ương về tâm lý. Bởi thế muốn rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận đ­ược nguồn hạnh phúc, thấy mình đ­ược chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Quan hệ của cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu th­ương nh­ư quan hệ mẹ con. Vậy hoạt động lao động s­ư phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ.

         Nếu trẻ có một thói quen  ăn uống xấu không những ảnh đến ham muốn ăn uống mà còn ảnh hưởng đến sự hấp thụ dinh dưỡng cho nên khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất thiết phải chú ý, bồi dưỡng thói quen ăn uống tốt cho trẻ từ nhỏ.

2. Cơ sở thực tiễn

a. Tình hình thực tế của đơn vị.

Trường mầm non nơi tôi công tác nằm trên địa bàn cuối Quận, về kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế, do vậy trẻ sinh và lớn lên cũng chịu những ảnh hưởng đó.

Khi trẻ đến trường, đa số đều rất bị động trong các hoạt động. Trẻ chưa mạnh dạn giao tiếp với cô và bạn. Trải qua một quá trình rèn luyện trẻ mới dần hình thành được các thói quen.

Ngay từ  đầu năm học, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy lớp nhà trẻ D2 ( lứa tuổi 24- 36 tháng). Trong quá trình chăm sóc và dạy trẻ  chúng tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

b. Những thuận lợi và khó khăn:

* Thuận lợi:

- Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng cơ sở vật chất phục vụ cho việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo sát xao việc tổ chức chăm sóc, thực hiện quy chế chuyên môn.

- Được bồi dưỡng kiến thức qua tập huấn, kiến tập, qua các buổi sinh hoạt chuyên môn nên bản thân tôi đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về công tác chăm sóc- giáo dục trẻ.

- Bản thân tôi là một giáo viên tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm nhà trẻ Mẫu giáo rất yêu nghề, mến trẻ,  nhiều kinh nghiệm chăm sóc  giáo dục trẻ.

- Phụ huynh rất nhiệt tình, quan tâm đến trẻ toàn diện, đặc biệt là bữa ăn của trẻ, thói quen vệ sinh, giấc ngủ của trẻ.

* Khó khăn:

- Là lớp có lứa tuổi nhỏ nhất trường, trẻ đi học lần đầu chưa có ý thức, vẫn giữ thói quen thích gì được nấy như ở nhà, không  có nề nếp trong mọi hoạt động.

- Trong giờ ăn trẻ chưa có nề nếp, còn có nhiều thói quen xấu như: Bốc thức ăn, gõ bát, uống nước canh … hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn..

- Một số trẻ vẫn phải ăn cháo, những trẻ nhỏ chưa biết tự xúc ăn.

- Một số phụ huynh sai cho rằng: Trẻ quá nhỏ để đưa vào nề nếp và cần phải cho trẻ ăn những thứ trẻ thích miễn sao ăn nhiều. Đặc biệt giữa phụ huynh chưa có sự phối hợp cùng giáo viên để dạy trẻ có một thói quen trong ăn uống.

Vẫn còn một số trẻ không ăn hết suất của mình.

Từ đầu tháng 10 năm 2016 tôi đã thực nghiệm khảo sát theo dõi số trẻ lớp tôi với tổng số trẻ là: 36 và được đánh giá theo tiêu trí sau:

 

STT

TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ

SỐ TRẺ ĐẠT

TỶ LỆ %

1

Số trẻ ăn ngon miệng, hết suất

26

72

2

Số trẻ lười ăn thịt

2

5,5

3

Số trẻ không ăn rau và hành

2

5,5

4

Số trẻ khồng thích ăn những món ăn có mùi thơm như: nấm hương…

1

3

5

Số trẻ không ăn hết suất của mình

3

8

6

Số trẻ không thích chất tanh như: Tôm cá…

1

3

7

Số trẻ không thích ăn cháo

1

3

Qua tình hình thực tế ở lớp tôi. Để trẻ có thói quen nề nếp tốt trong ăn uống, tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:

1.     Rèn trẻ có thói quen ăn uống đúng giờ giấc và đủ khẩu phần ăn.

2.     Tạo cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân trước khi ăn.

3.     Động viên trẻ tự xúc ăn, nhắc nhở khen ngợi trẻ trong quá trình trẻ ăn

4.     Tạo không khí trước và trong bữa ăn, vui vẻ, nhẹ nhàng để bé  ăn ngon miệng.

5.     Giáo dục trẻ có thói quen tốt trong ăn uống qua các câu chuyện, bài thơ,bài hát.

6.     Phối kết hợp với phụ huynh.

 

3. Các biện pháp thực hiện

3.1. Biện pháp 1: Rèn trẻ có thói quen ắn uống đúng giờ giấc và đủ khẩu phần ăn

Biện pháp này rất quan trọng vì như thế trẻ sẽ dần dần hình thành phản xạ có điều kiện, khi đến giờ ăn nhất định, vị trí môi trường đã định, thì trẻ sẽ làm tốt công việc chuẩn bị vào  bữa tiếp thu thức ăn.

VD: Tiết nước bọt tăng, đường dạ dày bắt đầu nhu động, các loại men tiêu hoá do đường tiêu hoá tiết ra tăng lên, khiến bé tăng cảm giác đói. Có được chuẩn bị về tâm lý, sinh lý này thì bé có thể ăn được một cách chủ động ăn chăm chú, ngon miệng.

 Để biện pháp này có hiệu quả, tôi đã phối hợp với giáo viên trong lớp nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ (không cắt xén, thay đổi tùy tiện) thực hiện đúng thời gian ăn theo quy định. Có như thế mới tạo cho trẻ thói quen tốt giờ nào việc ấy.

Bên cạnh đó tôi còn phối hợp với phụ huynh để những ngày nghỉ của trẻ ở nhà phụ huynh cũng làm theo thời gian biểu ở lớp. Có như vậy quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Việc làm này đã làm tăng sự gần gũi giữa gia đình và lớp trong việc tạo nên thói quen tốt cho trẻ.

 

Ảnh: Một giờ ăn trưa của trẻ

 

3.2. Biện pháp 2:  Tạo cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân trước khi ăn

          Như chúng ta đã biết, những thói quen vệ sinh, hành vi văn minh ở trẻ không phải tự nhiên mà có, lại càng khó đạt được ở lứa tuổi 24-36 tháng. Chính vì vậy vai trò của giáo viên và người lớn dạy bảo, hướng dẫn cho trẻ trong giai đoạn này là rất cần thiết và vô cùng cấp bách.

Do đó công tác chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh cá nhân cho trẻ trong trường mầm non là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục Mầm non. Đối với lớp tôi đang phụ trách thì đây cũng là một trong những công tác luôn được nhà trường hết sức quan tâm chú trọng đến.

           Trẻ ở giai đoạn này hay bắt chước nhưng lại mau quên. Nếu không nhắc nhở thường xuyên, không hướng dẫn cụ thể thì trẻ không thể hình thành thói quen được. Tạo cho trẻ có thói quen vệ sinh trước khi ăn không chỉ đảm bảo sức khỏe cho trẻ, phòng tránh được các dịch bệnh thường gặp dễ xâm nhập vào cơ thể non nớt của trẻ mà còn rèn cho trẻ ý thức tự giác, biết rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Đó là một thói quen không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.

 

Ảnh: Trẻ rửa tay trước khi ăn

Trước bữa ăn, tôi cùng với các giáo viên trong lớp đã cho trẻ ngừng mọi hoạt động vui chơi và chỉ định chỗ ngồi cho trẻ, không cho trẻ đùa nghịch, chạy nhảy hoặc di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác.

Nên cho trẻ chọn một chỗ ngồi cố định. Khi trẻ đã ổn định chỗ ngồi, tôi tiến hành cho trẻ trong từng bàn xếp hàng để đi vệ sinh. Khác với các lớp mẫu giáo, trẻ nhà trẻ chưa thể tự rửa tay một mình được nên cần có sự giúp đỡ của giáo viên trong lớp. Sau khi trẻ đi vệ sinh xong trẻ sẽ được cô giáo lau mặt mũi và rửa tay theo đúng quy trình rửa tay cho trẻ mà các cô đã được đào tạo.

        Khi vệ sinh cho trẻ cũng phải quan tâm đến thời tiết nóng hay lạnh mà giáo viên có sự điều chỉnh kịp thời để đảm bảo sức khỏe cho trẻ. Mùa hè thời tiết ấm áp, cô dùng khăn mát và nước mát lau mặt, rửa tay cho trẻ. Nhưng khi mùa đông đến, thời tiết lạnh giá, nhất thiết giáo viên phải chuẩn bị khăn ấm, nước ấm rửa cho trẻ.

         Vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn sẽ giúp trẻ thấy thoải mái, phấn khởi, trẻ tự tin hơn khi tham gia vào hoạt động ăn cùng các bạn.

3.3. Biện pháp 3: Động viên trẻ tự xúc ăn, nhắc nhở khen ngợi trẻ trong giờ ăn

Thật vậy, cứ đến bữa ăn của gia đình mà trẻ được ngồi cùng mâm, cũng có bát thìa để ăn thì bé thích lắm, chúng luôn tay sử dụng thìa để xúc cơm, thức ăn (mặc dù được ít). Một số phụ huynh sự con bẩn nên không cho trẻ dùng bát thìa hoặc tự xúc như vậy vô tình chúng ta đã kìm hãm ham muốn ăn uống của trẻ. Để trẻ tập xúc ăn còn khi ăn nên xới cho trẻ  một ít ăn trước, ăn hết lại xới thêm, để tăng thêm lòng tin ăn uống cho bé. Tránh ép bé ăn, để tránh sinh ra bực bội mà trẻ chán ăn.

VD: Đối với những trẻ ăn bình thường với tiêu chuẩn 2 bát cơm/ 1 bữa nhưng với những trẻ lười ăn, cũng tiêu chuẩn đó tôi chia ra làm những phần nhỏ để trẻ ăn ít một, hết lại lấy thêm. Trong khi ăn, tôi còn động viên trẻ  kịp thời nói cho trẻ biết nếu ăn ngoan, hết xuất rẽ rất xinh học giỏi được cô yêu… Tuy trẻ ăn hơi lâu hơn các bạn tôi không hề thúc giục mà cứ để trẻ ăn từ từ nhai kỹ nhưng  những khích lệ kịp thời để trẻ ăn nhanh hơn bạn khác.

Phối hợp với giáo viên trong lớp theo dõi sát xao từng trẻ lười ăn, ăn chậm từ đó nắm được  đặc điểm riêng cá tính của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh.

VD: Cháu Ngọc Linh hay ngậm cơm, nhả bã thịt

        Cháu Tiến Phong chỉ ăn cơm canh

         Cháu Đức Anh không ăn cháo...

Phối hợp với giáo viên trong lớp cùng dạy trẻ, kiên trì như hướng dẫn trong giờ ăn.

VD: Khi dạy trẻ tập xúc cơm cô nói con cầm thìa xúc cơm thật khéo như vậy tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được  đi biểu diễn ở nhiều nơi được nhiều người biết đến và yêu quý.

-    Kết hợp với phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp. Có như vậy việc dạy trẻ của  cô giáo mới có kết quả cao.

3.4. Biện pháp 4: Tạo không khí trước và trong bữa ăn, vui vẻ, nhẹ nhàng để bé ăn ngon miệng

Cũng như người lớn việc tạo cảm giác hứng thú trước khi ăn là vô cùng quan trọng, không thể thiếu được vì nếu trước bữa ăn mà buồn, chán thì trong suốt bữa ăn đó trẻ cũng không vui vẻ luôn ở trạng thái uể oải, không tập trung. Do đó trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe những câu truyện  vui, liên quan đến cách ăn uống mang tính giáo dục cao hoặc cho  trẻ đọc thơ, hát vui vẻ.

Trẻ 24-36 tháng có tâm lý rất sợ bị chê và thích được khen ngợi, nắm bắt được đặc điểm tâm lý này của trẻ, trong lúc trẻ ăn tôi cùng giáo viên trong lớp luôn dùng lời lẽ nhẹ nhàng động viên khen ngợi kịp thời mỗi khi trẻ ăn ngoan, nghe lời cô.

 Trẻ nào cũng muốn được cô khen nên các trẻ rất cố gắng ăn ngoan, ăn hết suất và tôi nhận thấy việc thường xuyên khen ngợi trẻ đã giúp cho trẻ lớp tôi có tiến bộ rõ rệt không chỉ trong hoạt động giờ ăn mà còn tiến bộ trong các hoạt động khác.

 

Ảnh: Cô trò chuyện, chơi trò chơi với trẻ trước bữa ăn

3.5. Biện pháp 5: Giáo dục trẻ có thói quen tốt trong ăn uống thông qua các câu chuyện, bài thơ, bài hát

Hàng ngày các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả... mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện... trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen. Vì ở lứa tuổi này, trẻ rất thích được nghe kể chuyện, những nội dung câu chuyện được trẻ nhớ lâu và khó phai mờ. Do đó tôi đã sáng tác ra một số câu chuyện để giáo dục trẻ về thói quen, hành vi tốt trong ăn uống:

Câu chuyện: Chiếc bánh rán.

Mai đang chơi đùa cùng các bạn thì mẹ Mai đi chợ về và mua cho Mai một chiếc bánh rán rất ngon. Mẹ gọi Mai về ăn bánh, Mai thích thú chạy về ngay và không kịp rửa tay, Mai cầm luôn chiếc bánh và ăn ngon lành. Khi ăn xong, Mai lại định chạy ra chơi tiếp cùng với các bạn thì Mai thấy đau bụng vô cùng. Mẹ hốt hoảng đưa Mai tới bác sĩ để khám. Bác sĩ hỏi : Cháu đã ăn những gì?

 Mai trả lời bác sĩ: Cháu ăn bánh rán mẹ mua.

Bác sĩ hỏi tiếp: Thế trước khi ăn cháu có rửa tay không?

Lúc này Mai cúi mặt xuống trả lời: Cháu không ạ.

Bác sĩ liền mỉm cười trìu mến và nói với Mai: Lần sau cháu phải rửa tay trước khi ăn nhé, tay bẩn mà không rửa cứ thế ăn cháu sẽ bị đau bụng đấy.

Mai bẽn lẽn trả lời: Vâng ạ.

Từ đó, trước khi ăn gì Mai cũng đều tự giác đi rửa tay thật sạch sẽ.

Qua câu chuyện này, tôi giáo dục cho trẻ phải biết rửa tay trước khi ăn.

Hay qua bài thơ “Rửa tay sạch” trẻ cũng được giáo dục phải rửa tay trước khi ăn: Rửa tay sạch

                               Cô dặn bé

Trước giờ ăn

Rửa tay sạch

Khi tay bẩn 

Phải rửa ngay 

Với xà phòng  

Bé ghi lòng 

Lời cô dạy

Bài thơ: “ Giờ ăn” cũng giáo dục trẻ tự xúc cơm ăn gọn gàng, không làm rơi vãi cơm ra bàn và phải ăn hết xuất       

                         Giờ ăn

      Đến giờ ăn cơm

      Vào bàn bạn nhé

      Nào thìa, bát, đĩa

      Xúc cho gọn gàng

      Chớ có vội vàng

      Cơm rơi, cơm vãi

Bài thơ “ Ăn” giáo dục trẻ biết rửa tay trước khi ăn và ăn ngoan, ăn hết suất:                     

Ăn

Rửa tay sạch

Mặc yếm vào

Bé đứng trước

Lớn đứng sau

Dắt tay nhau

 

Ngồi vào ghế

Nhai thật kỹ

Nuốt cho ngon

Ăn hết cơm

Không rơi vãi

 

 

Ảnh: Cô kết hợp giáo dục trẻ thông qua các câu chuyện, bài thơ

3.6. Biện pháp 6: Phối kết hợp với phụ huynh

           Biện pháp này rất quan trọng. Thực hiện tốt sẽ giúp cho giáo viên nắm bắt về đứa trẻ được nhanh nhất và chính xác nhất từ thói quen giờ giấc đến tâm sinh lý của từng trẻ. Dựa vào đó giáo viên đưa ra được các biện pháp tác động tới trẻ phù hợp và kịp thời.

          Trẻ mầm non ở lứa tuổi 24- 36 tháng có một tâm lý rất tò mò, học hỏi nhanh, dễ nắm bắt nếu giáo viên luôn gần gũi và quan tâm trẻ. Ngay từ đầu năm học, khi được phân công dạy lớp nhà trẻ, bản thân tôi cũng có nhiều trăn trở và suy nghĩ. Làm thế nào để trẻ mỗi ngày đến trường là một ngày vui, làm thế nào để trẻ đến trường vừa được học, được vui chơi thoải mái, học thông qua chơi, học bằng chơi - chơi mà học. Bởi vậy, tìm hiểu tâm lý của trẻ và tìm hiểu về lớp học rất quan trọng.

 Khi nhận trẻ vào lớp, đối với mỗi phụ huynh, tôi cùng kết hợp để điều tra về tâm lý, thói quen của trẻ trong ăn uống để từ đó, có những biện pháp thích hợp rèn thói quen tốt cho trẻ.

PHIẾU ĐIỀU TRA ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TRẺ

TRƯỚC KHI VÀO NHÀ TRƯỜNG

LÝ LỊCH TRẺ

Ngày sinh trẻ

Họ và tên trẻ

Họ và tên bố

Họ và tên mẹ

……………..

……………..

……………..

……………..

THÓI QUEN TRONG ĂN UỐNG

(Đề nghị phụ huynh ghi rõ thói quen của trẻ ở gia đình)

…………………………………………………………………

………………………………………………………………….

………………………………………………………………….

VỆ SINH CÁ NHÂN CỦA TRẺ

…………………………………………………………………

………………………………………………………………….

………………………………………………………………….

 

PHỤ HUYNH KÝ TÊN

 

             Ngoài các đặc điểm nội dung điều tra trong phiếu ở lớp, khi trẻ được tuyển sinh vào trường, hồ sơ của trẻ cũng đã nêu một số nội dung cấn thiết như : Cân nặng, chiều cao, tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh gia đình… Sau khi được phát phiếu điều tra, 100% phụ huynh của lớp rất hào hứng kê khai đầy đủ, vì phụ huynh hiểu rằng việc làm này rất quan trọng, thể hiện sự quan tâm của các cô giáo trên lớp đối với trẻ.

          Cũng từ các nội dung trong phiếu, giáo viên nắm bắt được tâm lý của trẻ, có các biện pháp chăm sóc ăn uống, vệ sinh với từng trẻ một cách thích hợp.

           Để thực hiện rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì các bậc phụ huynh giữ vai trò rất quan trọng. Ngoài việc tìm hiểu trẻ thông qua phát phiếu điều tra, trong các buổi họp phụ huynh tôi chú trọng tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các bậc phụ huynh trong việc giáo dục con trẻ và phối hợp với cô giáo trong việc xây dựng và hình thành các nền nếp thói quen tốt cho trẻ trong vấn đề ăn uống.

          Tuyên truyền và vận động phụ huynh những ngày nghỉ ở nhà phụ huynh cũng cho trẻ thực hiện chế độ ăn theo đúng thời gian biểu trên lớp và cho con tự xúc cơm ăn.

Có như vậy quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Việc làm này đã làm tăng sự gần gũi giữa gia đình và lớp trong việc tạo nên thói quen tốt cho trẻ.

          Tôi cùng các giáo viên trong lớp thường xuyên trao đổi với phụ huynh không cho con mang quà vặt đến lớp, không cho con ăn vặt trước bữa ăn. Những bé thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thì thường thiếu cảm giác đói, không thèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hoá cứ ở trạng thái làm việc không có cơ hội nghỉ ngơi, dễ xuất hiện công năng đường tiêu hoá rối loạn.

          Một cách đơn giản để tuyên truyền tới phụ huynh mang lại hiểu quả cao nhất đó chính là xây dựng góc tuyên truyền. Góc tuyên truyền này tôi bố trí ở ngoài lớp, chỗ mà phụ huynh có thể nhìn rõ nhất. Trong góc tuyên truyền, tôi dán kế hoạch hoạt động một ngày của trẻ trên lớp để phụ huynh nắm được và kết hợp với giáo viên chặt chẽ hơn trong việc giáo dục con ở nhà. Nội dung tuyên truyền thay đổi theo tháng, theo mùa đặc biệt là rất phong phú về nội dung các bài, gần gũi với cuộc sống. Qua đó đã giúp phụ huynh hiểu rõ hơn tầm quan trọng của bữa ăn đối với trẻ về mọi mặt (chất lượng – số lượng) và bổ sung thêm kiến thức về nuôi dạy con.

 

Ảnh: Góc tuyên truyền với cha mẹ trẻ

3.7. Biện pháp 7: Giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ 24 – 36 tháng

   Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt hiệu quả cao, xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ để đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những tài liệu có nội dung về đề tài, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ thể của lớp, của trẻ. Tích cực tham khảo qua tài liệu, sách báo, internet, tạp chí giáo dục mầm noncần chịu khó kiên trì và sáng tạo trong từng bài dạy, từng tiết học và sáng tạo trong việc làm nhiều đồ dùng đồ chơi cho trẻXác định rõ những khó khăn và điều kiện thuận lợi của nhà trường, của lớp, của bản thân. Từ đó tìm ra biện pháp thực hiện hữu hiệu nhất.

3.8. Biện pháp 8: Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi

   Mỗi ngày đến lớp trẻ đều được tham gia với các nội dung hoạt động: giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả... mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện.

Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo.

 Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên cô phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện... trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, cô cũng có thể sử dụng để trẻ phần nào liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo.

Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ của cô trẻ được uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong mọi hoạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu quả cao hơn, các cháu ngoan và nề nếp hơn. Trong giờ họat động có chủ đích cô giáo kết hợp giáo dục rèn luyện vệ sinh thân thể, giáo dục ý thức sử dụng đồ dùng đồ chơi…Trong giờ trả trẻ cô có thể kết hợp với phụ huynh nhắc nhở trẻ ăn và ngủ đúng giờ, không ăn quà vặt hay phải đi học đều thì sẽ được thưởng bé ngoan….

Hàng ngày các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả... mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen khụng phải là chuyện dễ và đơn giản.

Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện... trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen. tôi cũng có thể sử dụng để trẻ phần nào liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo.

Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ của cô, trẻ được uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong mọi hoạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu quả cao hơn, các cháu ngoan và nề nếp hơn. Ví dụ:  Rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như:  Bé ngoan, Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào…Các bài thơ: Chào, Miệng xinh, Cháu chào ông ạ, cô và mẹ…Có thể kết hợp cho trẻ xem tranh khi đọc thơ cho trẻ nghe.

 

Ảnh: Rèn một số kỹ năng sống trong các hoạt động góc

Ví dụ:

- Giáo viên có thể rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như:  Bé ngoan, Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào.

Các bài thơ, câu chuyện: Lời chào, Miệng xinh, Cháu chào ông ạ!

- Qua bài thơ, bài hát  rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ chơi và để đúng nơi qui định.

- Để rèn cho trẻ có thói quen tốt và ăn ngủ đúng giờ, giáo viên có thể sử dụng các bài thơ “ Giờ ăn” hay bài thơ : “ Giờ ngủ” và bài hát “ Chúc bé ngủ ngon”

- Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua các bài thơ “ Khăn nhỏ”, “Rửa tay”…

Rửa tay

Miếng xà phòng nho nhỏ

Em xát lên bàn tay

Nước máy đây trong vắt

Em rửa đôi bàn tay

Đôi bàn tay be bé

Nay rửa sạch xinh xinh

Tất cả lớp chúng mình

Cùng giơ tay vỗ vỗ

Đến giờ đi ngủ tôi cho trẻ đọc bài thơ : “ Giờ ngủ”

Giờ ngủ

Vào giường đi ngủ

Không nghịch đồ chơi

Không gọi bạn ơi

Không cười khúc khích

Không ai tinh nghịch

Giơ chân, giơ tay

Phải nằm cho ngay

Mắt thì nhắm lại

Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ chơi như:

     Bạn ơi hết giờ rồi

     Nhanh tay cất đồ chơi

     Nhẹ tay thôi bạn nhé

     Cất dồ chơi đi nào

- Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua các bài

 Bài thơ: “Rửa tay sạch”

    Rửa tay sạch

Cô dặn bé

Trước giờ ăn

Khi tay bẩn

Phải sửa ngay

Với xà phòng

Bé ghi lòng

Lời cô dặn

 

 

Ảnh: Giờ ngủ của trẻ

 

Ảnh: Trẻ rèn kỹ năng cầm thìa khi chơi bế em, xúc cho em ăn

4. Kết quả đạt được

Tuy những biện pháp tôi áp dụng đã có nhiều đồng nghiệp và ngay cả bản thân tôi đã sử dụng nhưng năm nay tôi đặc biệt đi sâu, đi sát vào từng hoạt động nhỏ của trẻ, đi từng cá nhân trẻ nên kết quả thu được sau một năm áp dụng các biện pháp là rất đáng kể. Với sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, sự hỗ trợ góp ý của các bạn đồng nghiệp trong nhóm lớp, trong trường qua các buổi dự giờ. Lớp học của tôi đã thu hoạch được những kết quả như sau:

         -  Đối với giáo viên:

    + Giáo viên trong lớp cũng như giáo viên trong tổ chuyên môn khối nhà trẻ có sự giao lưu, học tập lẫn nhau. Nắm chắc hơn về phương pháp tiến hành giờ ăn cho trẻ.

          + Có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức rèn nề nếp, thói quen tốt cho trẻ trong ăn uống.

+ Thi quy chế từng được giải cao. Được Ban giám hiệu, đồng nghiệp khen ngợi, biểu dương về viêc chăm sóc- giáo dục trẻ, nề nếp trẻ. Tỉ lệ chuyên cần được duy trì ở mức yêu cầu và trên yêu cầu.

+ Giáo viên gần gũi, hiểu đặc điểm tâm lý của trẻ hơn.

  - Đối với trẻ:

          +  Trẻ nhà trẻ có nề nếp, thói quen tốt trong ăn uống.

          + Có thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.

          + Trẻ ăn ngoan, ăn hết suất.

          + Trẻ có ý thức, thói quen tự phục vụ: Tự xúc cơm ăn, tự đi vệ sinh khi có nhu cầu nên tôi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ một cách dễ dàng.

Đặc biệt  các cháu về nhà đã biết tự mình làm một số việc tự phục vụ: Tự xúc ăn, tự uống n­ước, biết gọi ng­ười lớn khi có nhu cầu đi vệ sinh, khi chơi xong tự cất đồ chơi biết đọc thơ, hát bi bô cho ông bà, bố mẹ nghe. Vì vậy các bậc phụ huynh rất vui, càng yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan tâm đến việc học tập của các cháu nhiều hơn.

Qua quá trình áp dụng và thực hiện một số biện pháp trên đã cho tôi kết quả sau:

STT

TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ

SỐ TRẺ ĐẠT

TỶ LỆ %

1

Số trẻ ăn ngon miệng, hết suất

33

91

2

Số trẻ lười ăn thịt

1

3

3

Số trẻ không ăn rau và hành

0

0

4

Số trẻ khồng thích ăn những món ăn có mùi thơm như: nấm hương…

0

0

5

Số trẻ không ăn hết suất của mình

1

3

6

Số trẻ không thích chất tanh như: Tôm cá…

0

0

7

Số trẻ không thích ăn cháo

1

3

  - Đối với phụ huynh:

+ Có sự thay đổi nhìn nhận về vấn đề dinh dưỡng của con mình, nhận thấy được tầm quan trọng của việc hình thành những thói quen tốt trong vấn đề ăn uống của con em mình qua đó có chế độ chăm sóc con cái hợp lý và hiệu quả hơn.

          + Phụ huynh có cái nhìn đúng đắn hơn về bậc học mầm non. Nhiều phụ huynh đã tìm ra được phương pháp phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục, chăm sóc trẻ.

 

III: KẾT LUẬN     

1. Kết luận

Việc tạo cho trẻ có thói quen và vệ sinh tốt trong ăn uống vô cùng quan trọng.  Nó không chỉ giúp trẻ tăng thêm tính tự lập mà các thói quen này còn theo trẻ lên lớp mẫu giáo và trong suốt cả cuộc đời của trẻ. Qua việc áp dụng những sáng kiến của mình, nhờ có sự phối kết hợp ăn ý của các đồng nghiệp trong lớp, tôi nhận thấy những biện pháp của mình có tính tích cực cao. Trẻ có tinh thần tự giác, tự lập cao, có thói quen, nề nếp, hành vi văn minh trong vấn đề ăn uống

Để đạt được kết quả như trên, giáo viên đã thể hiện được tấm lòng yêu nghề, tận tụy với nghề, quý mến trẻ, coi trẻ như những đứa con thân yêu của mình. Hiểu được tâm sinh lý của trẻ từ đó có phương pháp tác động, giáo dục trẻ một cách khoa học. Có thể nói rằng những điều mà trẻ bắt đầu tiếp nhận ở độ tuổi này đều ảnh hưởng lâu dài đến việc hình thành nhân cách của trẻ sau này.

2. Bài học kinh nghiệm:

 - Để có được kết quả cao trong việc rèn nề nếp và tạo thói quen vệ sinh cho trẻ ngoài nắm vững các phương pháp, người giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong lớp từ đó có những biện pháp tác động phù hợp.

- Luôn trao đổi, học hỏi với bạn bè đồng nghiệp về kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ.

- Giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi đặc biệt quan tâm tới những trẻ chậm, trẻ mới ra lớp.

- Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ trên lớp để tìm ra nguyên nhân và cách dạy trẻ tốt nhất.

- Tạo cơ hội cho trẻ được làm những việc phù hợp với khả năng của trẻ.

3. Đề xuất- kiến nghị

a.      Đối với nhà trường:

- Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học hỏi dự giờ những tiết dạy giỏi, dạy mẫu của trường, của quận…

- Trang bị đầy đủ cơ sơ vật chất, đồ dùng dạy học cho cô và trẻ hơn nữa.

-Tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ ứng dụng CNTT vào giảng dạy

- Tiếp cận các kênh thông tin, các phương tiện kỹ thuật hiện đại làm tăng thêm hiệu quả cho việc rèn luyện nề nếp cho trẻ.

Tôi mong rằng sẽ nhận được sự đóng góp của các đồng chí lãnh đạo và chị em đồng nghiệp giúp cho tôi làm tốt hơn nhiệm vụ của mình, góp phần vào sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ ngày một tốt hơn.

b.     Đối với Phòng Giáo dục: 

Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho các giáo viên mầm non chuyên đề về phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi, giúp giáo viên nắm bắt tiếp cận những vấn đề đổi mới.

- Tổ chức nhiều tiết kiến tập thường xuyên hơn về phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi.

Trên đây là một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ thông qua hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, tạo điều kiện phát triển kịp thời ngôn ngữ cho trẻ. Vậy mong các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến giúp bản sáng kiến của tôi thêm hoàn thiện.

  Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.       Hướng dẫn và gợi ý thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ từ 3 -36 tháng ( Trung tâm nghiên cứu GDMN – 2000)

2.       Tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình GDMN nhà trẻ 3 – 36 tháng ( xuất bản năm 2008)

3.       Tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình GDMN nhà trẻ 3 – 36 tháng ( xuất bản năm 2009)

4.       Sách hướng dẫn làm đồ chơi bằng nguyên liệu dễ tìm (Xuất bản năm 2009)

5.       Sách hướng dẫn làm đồ chơi từ vật liệu thông thường (Xuất bản năm 2009)

Tài liệu tham khảo trên internet

Nguồn: ST

Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post

QC

QC