Skkn Một số biện pháp rèn luyện những thói quen vệ sinh cho trẻ 5-6 tuổi

 


MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NHỮNG THÓI QUEN VỆ SINH CHO TRẺ 5-6 TUỔI

I. SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG KIẾN.

Như chúng ta đã biết xã hội càng ngày càng phát triển với tốc độ không ngừng, cuộc sống con người cũng không ngừng nâng cao lên, các nhà máy, xí nghiệp mọc lên nhanh chóng và luôn hoạt động không mệt mỏi, đi đôi với sự phát triển ấy thì cũng kéo theo không khí ô nhiễm, nguồn nước ô nhiễm, bệnh tật gia tăng…, có những căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc chữa trị thì lại xuất hiện căn bệnh mới khác.

Lứa tuổi Mầm Non là lứa tuổi dễ mắc bệnh nhất vì cơ thể trẻ trong giai đoạn này sức đề kháng còn yếu. Vì vậy trong công tác chăm sóc và giáo dục vệ sinh cho trẻ mẫu giáo là một việc rất quan trọng và đó là nhiệm vụ rất cần thiết. Giúp cho cơ thể trẻ phát triển tốt, chống đỡ được các bệnh tật, tránh được những dị tật thích nghi được với điều kiện sống, khi trẻ có một thể lực tốt thì trẻ mới nhanh nhẹn tham gia các hoạt động, từ đó việc thực hiện mục tiêu giáo dục Mầm Non có hiệu quả tốt hơn.

Vì vậy ngay từ đầu năm học này tôi quyết định tìm ra “Một số biện pháp rèn luyện những thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường mẫu giáo ”. Trong quá trình thực hiện tôi đã gặp những khó khăn sau:

- Các cháu tuy có thói quen vệ sinh nhưng chỉ là qua loa, chưa theo thứ tự các bước và ý thức vệ sinh chưa cao.

- Tài liệu tham khảo liên quan đến việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ còn hạn chế.

- Đa số phụ huynh đều làm nghề nông, và một số phụ huynh lo kinh tế gia đình, chưa hiểu biết và quan tâm đến giáo dục thói quen vệ sinh trẻ.

- Một số cháu mới đi học nên thói quen vệ sinh cũng hạn chế.

Đứng trước tình hình như vậy, tôi suy nghĩ phải dạy trẻ như thế nào và bằng những biện pháp gì để trẻ lớp tôi có những thói quen vệ sinh tốt. Nên tôi đã suy nghĩ, tìm tòi nghiên cứu tìm ra những biện pháp nhằm dạy trẻ có thói quen vệ sinh.

II. PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN.

          Các nội dung trên đã áp dụng thực tiễn ở lớp Lá 2 và đã tham mưu với cấp lãnh đạo trường mẫu giáo Sao Mai - huyện Năm Căn, mở rộng áp dụng vào các lớp khác trong trường.

III. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN.

1. Giáo viên phải lựa chọn nội dung giáo dục thói quen vệ sinh phù hợp với trẻ.

 Giáo viên phải nghiên cứu và lựa chọn nội dung giáo dục thói quen vệ sinh phù hợp với trẻ :

- Vệ sinh trước và sau khi ăn: Rủa tay, lau mặt, đánh răng.

- Vệ sinh sau khi đi vệ sinh: Rửa tay

 - Vệ sinh nơi công cộng: Bỏ rác đúng qui định, không nhổ bậy, biết sử dụng nước sạch..

 - Vệ sinh trong các hoạt động của lớp: Vệ sinh trong hoạt động học, hoạt động góc, biết gấp cất trải nệm, gối, biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp, biết để đồ dùng cá nhân đúng nơi qui định.

 - Vệ sinh thân thể: Trẻ tự mặc quần áo, chải đầu, giữ cho cơ thể, quần áo sạch sẽ, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi…

    2. Cô giáo cần nghiên cứu và nắm vững các thao tác vệ sinh để dạy trẻ.

          - Để dạy trẻ các thói quen vệ sinh đạt kết quả tốt giáo viên cần nghiên cứu kĩ các thao tác vệ sinh để dạy trẻ. Ngoài ra cô cần mở rộng thêm cho trẻ xem một số hình ảnh về các ảnh hưởng xấu từ mất vệ sinh và các mặt tích cực từ vệ sinh tốt.

VD: Khi dạy trẻ thao tác rửa tay bằng xà phòng thì cô cần xem kỹ 6 bước rửa tay bằng xà phòng.

Trước khi dạy trẻ kỹ năng cô cho trẻ xem tranh ảnh về một số bệnh dịch do mất vệ sinh gây ra và một số tranh ảnh rửa tay bằng xà phòng trong cộng đồng, sau đó cô nêu 6 bước rửa tay kèm tranh minh họa, cô rửa mẫu kèm giải thích, cho trẻ thực hành, cô bao quát trẻ.

VD: Khi dạy trẻ thao tác đánh răng thì cô cần xem kỹ 4 bước đánh răng.

Trước khi dạy trẻ kỹ năng cô cho trẻ xem tranh ảnh về một số bệnh răng miệng do mất vệ sinh răng miệng gây ra và một số tranh ảnh về những hàm răng đẹp do có ý thức tốt vệ sinh răng miệng, sau đó cô nêu 4 bước đánh răng kèm tranh minh họa, cô đánh răng mẫu kèm giải thích, cho trẻ thực hành, cô bao quát trẻ.

3. Cô giáo phải là tấm gương và cần thường xuyên rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ trong các hoạt động.

- Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong.

VD: Cháu Thùy Anh sau khi ăn xong nếu cháu không đánh răng cháu thấy rất khó chịu và không chịu đi ngủ.

- Vệ sinh môi trường nề nếp của lớp.

- Các cháu ở lớp mẫu thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vất rác bừa bãi, cháu không vất đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp điều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.

Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt.

- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh. Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.

-Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày.

VD: Lúc đón trẻ vào lớp phải chào cô, cô hướng dẫn trẻ xếp mũ nón vào giá, chải đầu, đi dép đúng chân.

- Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.

- Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội.

- Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung.

Không xúc qua đầu, không bỏ dở suất ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng – ăn xong lau miệng.

* Uống nước từ từ, không làm đổ, không làm vỡ cốc, không rót nước quá đầy, thò tay vào bình nước, không uống nước lã.

* Mặc: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo - thường xuyên tắm rửa thay quần áo.

* Với thiên nhiên môi trường:

- Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, không hái hoa ngắt lá, bẻ cành cây ở trường, lớp vườn hoa. Chăm tưới cây, nhổ cỏ, dọn vệ sinh.

- Giờ chơi phản ánh sinh hoạt.

Dạy trẻ biết rửa chén, bát đĩa xoong, chảo…

Dạy trẻ biết tôn trọng yêu kính người lớn tuổi, người trong gia đình… biết giúp đỡ lẫn nhau.

* Giờ vẽ: dạy trẻ ngồi đúng tư thế không nói chuyện.

* Giờ dán: Không bôi hồ ra người, quần áo.

* Giờ trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô, giáo dục các cháu theo chủ điểm yêu cầu của lớp học.

4. Thông tin hai chiều giữa nhà trường và gia đình.

Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ.

5. Tạo điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh.

- Muốn thực hiện được những quy định về vệ sinh thì phải có phương tiện thực hiện.

VD: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó, để cháu thực hiện vệ sinh rửa tay, đánh răng thì nhà trường phải xây dựng hệ thống vòi nước sạch…. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.

- Ngoài ra giáo viên cần làm một số kí hiệu vui , ngộ nghĩnh để nhắc cho trẻ nhớ về các việc làm vệ sinh

VD:Hình bàn tay bỏ rác vào thùng, hình ảnh rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh…dán xung quanh trường lớp, vòi nước …để trẻ thường xuyên nhìn thấy và ghi nhớ.

IV.  KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ MANG LẠI.

Qua một năm học áp dụng nội dung yêu cầu và các biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo nhỡ, nhìn chung cuối năm học các cháu đã hình thành những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh một cách khả quan.

* Đối với trẻ

- Cơ thể trẻ khỏe mạnh và ít bệnh tật hơn.  

- Tự rửa mặt, rửa tay chải đầu, thay quần áo sử dụng thành thạo dụng cụ vệ sinh.

- Biết giữ nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ.

- Biết bỏ rác vào giỏ, không vất rác bừa bãi.

- Biết đi tiêu tiểu đúng nơi quy định.

- Khi ăn cơm trẻ không làm rơi vãi, ít nói chuyện

- Các cháu đã thể hiện được nếp sống văn minh lịch sự.

- Biết giữ vệ sinh lịch sự nơi công cộng, thông khạc nhổ bừa bãi, khi ho ngáp hắt hơi, hỉ mũi, phải lấy tay che miệng.

- Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên.

* Đối với phụ huynh

Các bậc phụ huynh có những hiểu biết hơn về giáo dục vệ sinh cho cháu hơn, dạy đúng các thao tác theo yêu cầu và chú trọng giáo dục vệ sinh cho cháu trong các hoạt động ở nhà.

* Đối với bản thân

Bản thân tôi được trao dồi kiến thức về các kỹ năng vệ sinh, tôi được đồng nghiệp tín nhiệm và cử dạy chuyên đề vệ sinh cho toàn trường.

* Kết quả học kỳ I:

                       75% thực hiện tốt

                       10% trẻ thực hiện khá

                       10% trẻ thực hiện ở mức trung bình

                       5% trẻ yếu kém chưa thực hiện được.

* Kết quả học kỳ II:

                       90% thực hiện tốt

                        5% trẻ thực hiện khá

                       5% trẻ thực hiện ở mức trung bình

                       Không còn trẻ yếu kém.

V. ĐÁNH GIÁ PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA SÁNG KIẾN.

 Trước hết đối với lớp tôi đang giảng dạy khi tôi áp dụng những nội dung nêu trên vào giáo dục trẻ, thì trẻ lớp lá 2 ở trường mẫu giáo Sao Mai của tôi đạt kết quả cao.

Về phía nhà trường tôi đã tham mưu ý kiến của lãnh đạo trường và khi tôi đề xuất triển khai được lãnh đạo trường theo dõi, cho phép mở rộng ra toàn trường, tổ chức chuyên đề áp dụng cho các lớp học khác trong trường, được đồng nghiệp trong trường nhiệt tình ủng hộ và áp dụng.

Giáo viên ở các lớp đã áp dụng vào việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ lớp mình đều đạt kết quả tốt.

Trên đây là một số biện pháp giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ lớp lá 2 trong trường mẫu giáo Sao Mai tôi đã áp dụng thành công trên trẻ. Rất mong được sự đóng góp, giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp và Hội đồng khoa học các cấp.

Previous Post Next Post

QC

QC